Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 5
Mẹo nhóm nghĩa s- x:
- Tên thức ăn và đồ dùng nấu ăn viết là x: xôi, xa lát, xúc xích, xì dầu, xoong,
- Các động từ, tính từ thường viết là x: xách, xẻ, xay, xát, xào, xoa, xúc, xanh,
- Hầu hết các danh từ còn lại đều viết là s:
+ Chỉ người : sứ giả, đại sứ, sư sãi, giáo sư, gia sư,
+ Chỉ cây cối: sen, sung, sấu, sắn, si, sim, .
+ Chỉ đồ vật: sọt, sợi dây, sợi vải,
+ Chỉ sự vật, hiện tượng: sao, sương, sông, suối, sấm, sét,
Có một số trường hợp ngoại lệ là danh từ nhưng lại viết là x: xe, xuồng, xoan, xoài, túi xách, xương, xô, xẻng, xưởng, xã, trạm xá, bà xơ, mùa xuân. Học sinh có thể ghi nhớ các trường hợp ngoại lệ trên bằng cách học thuộc câu văn sau:
Mùa xuân, bà xơ đi xuồng gỗ xoan, mang một xe xoài đến xã đổi xẻng ở xưởng, đem về trạm xá cho bệnh nhân đau xương.
c cơ bản về các quy tắc chính tả đồng thời rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đúng, viết rõ, viết nhanh, viết đẹp. Cần kết hợp chính tả với rèn luyện cách phát âm được chính xác với việc củng cố và mở rộng vốn từ ngữ, vốn kiến thức về cuộc sống, về văn học từ đó góp phần phát triển tư duy cho học sinh ; óc nhận xét, so sánh, trí nhớ, Để khắc phục tình trạng học sinh viết sai lỗi chính tả, chúng ta đang cố gắng sử dụng nhiều biện pháp, nhiều hình thức dạy chính tả nhằm giúp học sinh Tiểu học hình thành, phát triển và hoàn thiện kĩ năng viết đúng Tiếng Việt văn hóa , Tiếng Việt chuẩn mực theo hướng “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt “, cũng như xây dựng chuẩn ngôn ngữ cho mỗi vùng miền của Tổ quốc, trong đó nhà trường là môi trường quan trọng bậc nhất đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện chuẩn hóa ngôn ngữ và chữ viết và môn học đảm nhận trọng trách to lớn này của trường Tiểu học là phân môn Chính tả. Bồi dưỡng cho học sinh những tư tưởng tình cảm tốt đẹp - trước hết là tôn trọng những quy tắc chính tả góp phần rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận, chính xác. Rèn luyện cho học sinh viết đúng chữ Việt (chữ quốc ngữ). Là một giáo viên dạy lớp 5 nhiều năm liền, tôi luôn chú trọng và quan tâm rèn cho học sinh viết đúng chính tả. Đặc biệt là khi chấm bài tập làm văn của các em rất vất vả, bài văn thì không dài mà lỗi diễn đạt, lỗi chính tả khó mà diễn tả nổi. Chính vì thế , một bộ phận học sinh chất lượng học tập còn thấp môn tiếng Việt phần đa bị điểm thấp ở môn chính tả. Có viết đúng chính tả thì các em mới học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác, việc dạy học sinh viết đúng chính tả là một việc làm vô cùng khó khăn, nó đòi hỏi sự kết hợp vận dụng linh hoạt và sáng tạo nhiều yếu tố, nhiều biện pháp, phương pháp và hình thức dạy học. Nhưng việc gì càng khó khăn thì nó lại càng quan trọng. Mà đã là quan trọng thì chúng ta lại càng phải làm và quyết tâm làm bằng được. Cũng vì những lí do trên mà tôi đã chọn đề tài Sáng kiến kinh nghiệm là: Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 5. Mong rằng những biện pháp mà tôi đã làm và đã thành công sẽ được nhiều thầy cô biết đến và cùng chia sẻ. III. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Chính tả là phân môn nhằm rèn cho học sinh kĩ năng viết, nghe, đọc và làm các bài tập chính tả, rèn luyện các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Kĩ năng chính tả thực sự cần thiết không chỉ đối với học sinh tiểu học mà còn với tất cả mọi người. Khi đọc một văn bản viết đúng chính tả, người đọc có cơ sở để hiểu đúng nội dung văn bản đó. Trái lại, một văn bản mắc nhiều sai sót về chính tả, người đọc khó nắm bắt nội dung và có thể hiểu sai hoặc không hiểu đầy đủ văn bản. Viết chính tả đúng còn giúp học sinh học tốt các phân môn khác, là cơ sở cho việc học bộ môn Tiếng Việt ở tiểu học. Chính tả còn bồi dưỡng cho học sinh một số đức tính và thái độ cần thiết trong công việc như: cẩn thận, chính xác, óc thẩm mĩ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm. IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN: 1. Học sinh chưa có ý thức viết đúng chính tả. Cụ thể là những tiếng, từ có sẵn trong SGK hoặc giáo viên đã ghi trên bảng và những từ thường xuyên sử dụng nhưng vẫn viết sai. 2. Học sinh đọc còn yếu, nhiều tiếng phải dừng lại đánh vần, tốc độ đọc chỉ đạt 60 đến 70 tiếng / phút. Vì thế các em không nhớ chữ ghi âm, tiếng và từ, dẫn đến việc thông hiểu nội dung còn hạn chế. 3. Học sinh không nhớ các qui tắc chính tả đã học nên viết tùy tiện, nghĩ sao viết vậy, có em còn sáng tạo thêm các vần mới lạ như: unh, ing, âch, 4. Học sinh không nắm nghĩa của từ, vốn từ ngữ tích lũy được còn rất hạn chế nên hay viết lẫn lộn các âm đầu, âm cuối, vần và thanh. 5. Hiện nay, với sự phát triển nhanh về kinh tế, văn hóa và xã hội; việc nghe, nói, đọc xem của học sinh thì rất nhiều nhưng viết thì ngày càng giảm. V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: Thông qua các giờ học trên lớp tôi nhận thấy học sinh không những mắc lỗi nhiều trong bài chính tả mà ngay cả trong bài tập làm văn, nhiều học sinh viết chậm, viết sai, viết dư nét chữ, thiếu nét chữ. Mặt khác, có nhiều bài nội dung phong phú mà chữ viết khó đọc, do viết sai lỗi. Giờ tập đọc cũng vậy, đa số học sinh đọc còn ê, a, đánh vần, phát âm sai lại rơi vào những em yếu chính tả. Chất lượng các bài chính tả của học sinh trong 2 tuần đầu : Số lỗi Bài 1(tuần 1) Bài 2(tuần 2) 1-2 3-4 5 - 6 Trên 5 9,1% 27,3% 24,2% 39,4% 12,1% 27,3% 30,3% 30,3% Căn cứ vào các nguyên nhân trên, tôi đề ra các biện pháp thực hiện sau đây: * Phát huy tính tự ý thức học chính tả. * Rèn kĩ năng đọc đi đôi với luyện viết chính tả. * Kết hợp ghi nhớ hình thức chữ viết của từ và nghĩa của từ. * Ôn tập giúp học sinh nắm vững các qui tắc chính tả, cung cấp cho học sinh một số mẹo luật chính tả đơn giản, dễ nhớ * Hướng dẫn học sinh tự phát hiện lỗi và sửa lỗi. * Tuyên dương khen thưởng kịp thời những học sinh có nhiều tiến bộ trong học tập. 1. Phát huy tính tự ý thức học chính tả Học sinh tự nghiên cứu trước ở nhà, tự tìm từ khó trong bài chính tả : Trước giờ chính tả, giáo viên cho học sinh về nhà viết bài chính tả vào vở rèn chữ ở nhà và yêu cầu các em xem kĩ trong bài đó, từ nào là từ khó viết, khó đọc và khó hiểu thì các em liệt kê ra, tập đánh vần, tập viết từ khó đó một lần nữa. Khi đến lớp, giáo viên giảng từ khó, các em đem các từ mình liệt kê ở nhà ra để trước mặt, đối chiếu xem từ đó cô đọc như thế nào, viết ra sao. Còn đối với các em rụt rè, nhút nhát thì giáo viên phải thường xuyên gọi các em đó tập phân tích từ khó, luyện đọc nhiều lần cũng để khích lệ tính mạnh dạn cho các em. 2. Rèn kĩ năng đọc đi đôi với luyện viết chính tả Có thể giảm bớt phần trả lời một số câu hỏi tìm hiểu nội dung bài viết, dành thời gian cho học sinh đọc kĩ bài chính tả và luyện viết những tiếng, từ khó hoặc dễ lẫn lộn theo đặc điểm phát âm của học sinh trong lớp. (Thực hiện theo yêu cầu chỉ đạo trong Công văn số 896/ GDTH -BGD và ĐT). Phần đọc chính tả cho học sinh viết, cần căn cứ vào tốc độ viết cụ thể của học sinh trong lớp để điều chỉnh tốc độ đọc của giáo viên và từng bước nâng dần tốc độ viết cho đạt chuẩn. Giáo viên phải phát âm cho thật chuẩn xác. Hằng ngày trên lớp, tôi chú ý rèn đọc cho các em bằng cách: - Gọi các em đọc bài nhiều lần không chỉ ở phân môn tập đọc mà cả ở các môn học khác, kiên trì sửa lỗi cho từng em. - Tổ chức cho các em đọc bài nhóm đôi trong 15 phút đầu giờ (2 lần/ tuần). - Phân công học sinh giỏi đọc bài cùng các em khi luyện đọc trong nhóm. - Khuyến khích các em học thuộc lòng một đoạn văn hay một vài khổ thơ, rồi nhớ- viết đoạn văn hay khổ thơ đã thuộc. Ngoài ra, mỗi tuần, vào tiết luyện Tiếng việt tổ chức cho các em luyện đọc, luyện viết. 3. Kết hợp ghi nhớ hình thức chữ viết của từ và nghĩa của từ Việc nắm nghĩa từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ sở giúp học sinh viết đúng chính tả. Đó là đặc trưng quan trọng về phương diện ngôn ngữ của chính tả Tiếng Việt, nó sẽ giúp học sinh giải quyết được những lỗi chính tả do ảnh hưởng cách phát âm theo phương ngữ. Vì vậy có thể nói rằng chính tả Tiếng Việt còn gọi là chính tả ngữ nghĩa. - Hiểu nghĩa của từ, phân biệt từ này với từ khác để các em ghi nhớ cách viết của mỗi từ. Ví dụ: Nếu tôi đọc một từ có hình thức ngữ âm là “ dành “ thì học sinh sẽ lúng túng trong việc xác định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu tôi đặt nó vào một ngữ cảnh hay gắn cho nó một nghĩa xác định như : Em để dành tiền mua sách truyện Thiếu nhi./ Trong trận đấu bóng đá ngày mai, các em phải giành lấy chiến thắng./ Các em đọc rõ ràng, rành mạch để cả lớp cùng nghe. Như vậy học sinh sẽ dễ dàng viết đúng chính tả. - Khi đọc chính tả cho học sinh viết, tôi đọc từng cụm từ ( diễn đạt một ý nhỏ); tôi luôn nhắc nhở các em chú ý lắng nghe , hiểu nghĩa từ để viết đúng chính tả - Trong giờ tập đọc, khi luyện đọc từ khó, giáo viên chọn những từ học sinh khó phát âm và cũng là những từ học sinh dễ viết sai lỗi chính tả, phải phát âm từ đó thật chuẩn xác và đưa nó vào trong văn cảnh của bài học để giải thích, có thể so sánh từ đó với một từ ở trong văn cảnh khác để học sinh hiểu sâu sắc hơn về nghĩa. Khi học sinh luyện phát âm, giáo viên chú ý theo dõi, uốn nắn kịp thời. Cũng như trong bài tập làm văn của học sinh, ngoài việc chấm lỗi về diễn đạt, giáo viên chú trọng cho học sinh về chính tả, thường là các em hay viết theo cách phát âm của mình. Khi trả bài viết (phần chữa lỗi chính tả), giáo viên phải phát âm cho đúng những từ bị học sinh viết sai phổ biến để các em có dịp so sánh và nhớ lâu hơn. - Khi học sinh làm bài tập chính tả, tôi chọn các bài theo phương ngữ Nam Bộ, tập trung vào các “ trọng điểm chính tả” để khắc phục các lỗi chính tả do cách phát âm của địa phương. Ngoài việc hướng dẫn các học sinh làm các bài tập trong SGK, tôi còn thay đổi hình thức và nội dung bài tập bằng cách vận dụng nguyên tắc phối hợp giữa phương pháp tích cực với phương pháp tiêu cực. Nghĩa là tôi hướng dẫn học sinh làm các bài tập chính tả theo hướng loại bỏ cái sai, xác định cái đúng. Theo cách này, tôi đã điều chỉnh và thay đổi nội dung và hình thức một số bài tập trong SGK nhưng vẫn bám sát yêu cầu cần đạt của bài học. Ví dụ: Bài tập chính tả tuần 16- TV5- tập 1 ( SGK trang 155 ) yêu cầu tìm các từ ngữ chứa các tiếng vàng- dàng; vào-dào, vỗ- dỗ. Thay vì cho các em tìm từ chứa các tiếng đã cho, tôi cho sẵn các từ và yêu cầu các em tìm các từ viết sai chính tả, rồi sửa lại cho đúng. Chẳng hạn : Tìm các từ viết sai chính tả trong bảng dưới đây: vàng- dàng vào- dào vỗ- dỗ màu vàng dàng bạc dội dàng dễ dàng dềnh dàng ra dào vào học dồi dào dạt dào dào lớp dỗ tay vỗ về sóng dỗ dỗ dành dạy dỗ 4. Nắm vững qui tắc chính tả và một số mẹo luật chính tả đơn giản, dễ nhớ Ở những lớp dưới, các em đã được cung cấp một số qui tắc chính tả. Lên lớp 5, các em vẫn thường xuyên được ôn lại nhưng không phải em nào cũng nhớ và vận dụng để viết đúng chính tả. Việc ghi nhớ và vận dụng đúng các qui tắc chính tả không phải là điều dễ dàng. Nếu cứ nói, cứ giảng mãi thì rồi các em cũng vẫn cứ quên. Để giúp các em nắm vững các qui tắc chính tả đã học một cách khái quát có hệ thống, tôi đã chọn lọc, tổng hợp các qui tắc và một số “mẹo” chính tả ở mức độ đơn giản để các em dễ nhớ, dễ thuộc, thậm chí khi nào quên các em có thể giở ra xem để viết đúng chính tả. Qui tắc và mẹo luật chính tả này chỉ nằm trong 2 mặt của một tờ giấy A4 nên học sinh rất dễ học, dễ nhớ và nhanh thuộc. MỘT SỐ QUI TẮC CHÍNH TẢ TT Các qui tắc chính tả Cách viết Ví dụ 1 Ghi phụ âm đầu a) Qui tắc viết k /c /q b) Qui tắc viết g /gh và ng /ngh -Trước i, e, ê, được viết là k; trước âm đệm u được viết là q. -Viết c trong các trường hợp còn lại o, ô, ơ - Trước i, e, ê được viết là gh hay ngh. Viết g hay ng trong các trường hợp còn lại o, ô, ơ - kể chuyện, kiên cường, - quyển sách, quyên góp - co, cô - ghi nhớ, ghe xuồng, nghiên cứu, suy nghĩ -go, ngo, gô, ngô 2 Ghi âm i ,y - Viết i sau âm đầu - Viết y sau âm đệm - Khi nguyên âm này đứng một mình thì viết là i đối với từ thuần Việt ; viết là y đối với từ gốc Hán. - niềm tin, tiên tiến - truyện, chuyển, tuyết - âm ỉ, ầm ì, ì ạch, lợn ỉ, ỉ ôi, í ới, -y tá, y hệt, y phục, y tế, lương y, y dược, 3 Ghi dấu thanh các tiếng có nguyên âm đôi - Có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái thứ hai của nguyên âm đôi. - Không có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái đầu của nguyên âm đôi. - mượn , trườn, cuồn cuộn, chuối, muỗi - múa, mía, lửa, cứa, đĩa, chĩa, 4 Viết tên riêng Việt Nam a) Tên người và tên địa danh Việt Nam b) Tên các cơ quan, tổ chức, danh hiệu, -Viết hoa tất cả các chữ cái đầu của mỗi tiếng tạo thành tên riêng đó. - Viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo thành tên riêng đó. - Võ Thị Sáu, Trần Quốc Toản, Nông Văn Dền, - Trường Tiểu học Tân Lập, Nhà Xuất bản Giáo dục,.. 5 Viết tên riêng nước ngoài: a) Trường hợp phiên âm qua âm Hán Việt. b) Trường hợp không phiên âm qua âm Hán Việt. - Viết hoa theo qui tắc viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam. - Viết hoa chữ cái đầu mỗi bộ phận tạo thành tên riêng và có gạch nối giữa các tiếng. - Mao Trạch Đông, Thái Lan, Hàn Quốc, - Lu-i Pa- xtơ, Pi- e Đơ -gây- tê, MỘT SỐ MẸO CHÍNH TẢ DỄ NHỚ a. Mẹo tương ứng thanh điệu trong từ láy: - Trong các từ láy đôi, các dấu thanh bao giờ cũng cùng một nhóm huyền- ngã- nặng hoặc không- sắc- hỏi. Học sinh dễ dàng nhớ mẹo này qua câu lục bát sau: Chị Huyền mang nặng, ngã đau Hỏi không sắc thuốc lấy đâu mà lành. b. Mẹo “ Mình nên nhớ viết là dấu ngã” : - với m ( mình) : mẫn cảm, mãnh liệt, mạnh mẽ, mĩ thuật, mĩ mãn, mĩ lệ, - Với n ( nên) : nỗ lực, phụ nữ, noãn bào, nỗi niềm, - Với nh ( nhớ) : nhẫn nại, nhiễm bệnh, truyền nhiễm, tham nhũng, thổ nhưỡng,.. - Với v ( viết) : vĩ đại, vĩ nhân, vĩ tuyến, viễn thị, viễn cảnh, vỗ tay, cổ vũ, - Với d ( dấu) : dưỡng sinh, nuôi dưỡng, dũng cảm, dã thú, dã man, diễm phúc, - Với ng ( ngã) : té ngã, ngỡ ngàng, ngưỡng mộ, ngôn ngữ, ngữ nghĩa, đội ngũ, c. Mẹo nhóm nghĩa tr- ch: - Những từ chỉ quan hệ thân thuộc trong gia đình thì viết là ch chứ không viết là tr: cha, chú, chị, cháu, chắt, chồng, - Những từ chỉ đồ vật trong gia đình thì viết là ch chứ không viết là tr: chai, chum, chén, chổi, chão, chõng, chiếu,..( ngoại trừ cái tráp, đồ vật này giờ ít dùng). d. Mẹo nhóm nghĩa s- x: - Tên thức ăn và đồ dùng nấu ăn viết là x: xôi, xa lát, xúc xích, xì dầu, xoong, - Các động từ, tính từ thường viết là x: xách, xẻ, xay, xát, xào, xoa, xúc, xanh, - Hầu hết các danh từ còn lại đều viết là s: + Chỉ người : sứ giả, đại sứ, sư sãi, giáo sư, gia sư, + Chỉ cây cối: sen, sung, sấu, sắn, si, sim, ... + Chỉ đồ vật: sọt, sợi dây, sợi vải, + Chỉ sự vật, hiện tượng: sao, sương, sông, suối, sấm, sét, Có một số trường hợp ngoại lệ là danh từ nhưng lại viết là x: xe, xuồng, xoan, xoài, túi xách, xương, xô, xẻng, xưởng, xã, trạm xá, bà xơ, mùa xuân. Học sinh có thể ghi nhớ các trường hợp ngoại lệ trên bằng cách học thuộc câu văn sau: Mùa xuân, bà xơ đi xuồng gỗ xoan, mang một xe xoài đến xã đổi xẻng ở xưởng, đem về trạm xá cho bệnh nhân đau xương. e. Mẹo viết d, r, gi: - Trong những từ láy đôi, nếu tiếng đầu có phụ âm l thì tiếng thứ hai có phụ âm là d, chứ không thể là r hay gi: lò dò, lai dai, lắc dắc, - Đối với các trường hợp khác, muốn xác định cách viết đúng phải dựa vào sự đối lập về nghĩa: + gia(tăng thêm): gia hạn, gia vị, gia tăng, tăng gia, tham gia, + gia ( nhà): gia đình, gia tài, gia sản, gia sư, gia trưởng, quản gia, gia phong,.. + da ( lớp vỏ bên ngoài): da thịt, da dẻ, da trời, da mặt, + ra ( sự di chuyển) : ra vào, ra ngoài, ra sân, ra chơi, Nhờ có bảng tổng hợp các qui tắc và mẹo luật chính tả này mà học sinh lớp tôi trở nên sôi nổi học tập, em nào cũng thuộc những câu thơ về mẹo luật chính tả, lỗi chính tả đã giảm đi đáng kể. Nhưng chỉ nắm các qui tắc và các“ mẹo” chính tả thì vẫn chưa khắc phục được triệt để các lỗi chính tả. Vì vậy, khi dạy chính tả , tôi phải phối hợp vận dụng cả qui tắc “ Kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không ý thức”. Phương pháp có ý thức vẫn được coi là chủ yếu như ghi nhớ các qui tắc, các mẹo chính tả,Nhưng trong một số trường hợp ghi nhớ các hiện tượng chính tả có tính chất võ đoán, không gắn với một qui luật, qui tắc nào thì tôi dạy các em cách “ nhớ từng chữ một” ( cách không óc ý thức), đây cũng là giải pháp hữu hiệu, hợp lí. Bởi vì, phần lớn những người viết đúng chính tả hiện nay đều dựa vào cách nhớ từng từ một.Theo cách này, tôi hướng dẫn học sinh chỉ cần tập trung nhớ mặt chữ của những từ dễ viết sai. Những từ dễ viết sai này chiếm tỉ lệ không nhiều, do đó học sinh có thể ghi nhớ được. Chẳng hạn như: rượu, hươu, khướu, ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, xoong, quần xoóc, xe goòng, hoặc từ những chỉ viết ngã chứ không viết hỏi, từ để chỉ viết hỏi chứ không viết ngã, từ kể chỉ viết hỏi chứ không viết ngã, 5.Hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi Sau khi viết xong bài chính tả, giáo viên cho học sinh đổi vở chéo để chấm bài nhau. Đây là khâu mà đa số giáo viên bỏ qua vì sợ tốn thời gian, ảnh hưởng thời gian dạy tiết học tiếp theo và nghĩ rằng trước sau gì giáo viên cũng chấm lại. Tuyệt đối phải thực hiện nghiêm túc khâu này. Học sinh tự chấm bài bạn được thực hiện theo việc đọc từng câu của giáo viên để soát lỗi, kết hợp chỉ dẫn các chữ dễ viết sai. Sau đó, giáo viên chấm lại bài của lớp, so sánh số lỗi mà học sinh chấm và số lỗi của giáo viên chấm để thấy được học sinh chấm bài của bạn có cẩn thận, chu đáo không ? Và cũng thông qua việc chấm bài của bạn, học sinh lại một lần nữa được nắm bài chắc hơn. 6. Tuyên dương, khen thưởng những học sinh có tiến bộ trong học tập Học sinh Tiểu học rất thích được khen thưởng, tuyên dương. Các em rất thích được chấm điểm, rất thích được cô phê những lời khen vào vở để về nhà khoe với cha mẹ. Có thể, có em chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học chính tả nhưng các em rất thích được thầy cô, cha mẹ khen. Nhờ những lời khen đó mà các em vui sướng, thích đến trường; tích cực, cố gắng, tự giác hơn trong học tập. Hiểu đặc điểm tâm lí của các em như vậy nên tôi luôn động viên, khuyến khích các em; tôi luôn theo dõi sát quá trình học tập của học sinh , dù chỉ một tiến bộ nhỏ của các em về thái độ học tập cũng như kết quả học tập , tôi đều khen ngợi kịp thời. - Đối với những học sinh khá, giỏi, bài viết sạch đẹp, ít sai chính tả, tôi thường ghi nhận xét vào vở, và biểu dương các em trước lớp. - Đối với những học sinh viết sai chính tả nhiều, tôi luôn dành thời gian hướng dẫn các em sữa lỗi ngay tại lớp. Cứ nửa học kì, tôi chọn ra 5 em có tiến bộ nhất để khen thưởng. Phần thưởng chỉ là hai cuốn vở có chữ kí của tôi và được tôi bao bìa, dán nhãn cẩn thận hoặc một cây viết( loại có thể thay ngòi), Phần thưởng tuy nhỏ nhưng các em rất vui, rất hãnh diện. VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bằng các biện pháp, các hình thức tổ chức phù hợp nói trên, tôi đã từng bước hình thành ở học sinh năng lực và thói quen viết đúng chính tả; các em viết chính tả một cách có ý thức chứ không tùy tiện như trước. Đầu năm ½ số học sinh không có điểm chính tả ( sai trên 10 lỗi, tôi không chấm điểm ), nhưng đến cuối học kì I, các em đã có sự tiến bộ rõ rệt, chỉ còn vài em viết sai nhiều, có bài vẫn phải chép lại. Nhưng so với đầu năm, các em vẫn có tiến bộ rất nhiều. Các em không chỉ có ý thức viết đúng chính tả mà còn có ý thức rèn luyện chữ viết. Sang học kì II, các em càng tiến bộ hơn. Những em mất căn bản về chính tả thì lại vững vàng hơn, ít mắc lỗi thông thường hơn, chữ viết cẩn thận và đẹp hơn. Số lỗi Kết quả bài KTCK I 1-2 3-4 5 - 6 Trên 5 30,3% 48,5% 18,2% 3% VII. KẾT LUẬN Tôi có được thành công trong dạy học phân môn Chính tả là do các nguyên nhân chính sau đây: 1. Hiểu học sinh, nắm được đặc điểm tâm lí và nhu cầu sở thích của từng em. 2. Vận dụng những kiến thức về ngữ âm học Tiếng Việt vào việc phân loại lỗi chính tả, tìm hiểu đặc điểm của từng loại lỗi, xác định được “ trọng điểm chính tả” cần dạy, và xây dựng được các qui tắc chính tả, các” mẹo” chính tả, giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng; tôi vận dụng linh hoạt 3 nguyên tắc cơ bản trong dạy học chính tả. 3. Nghiên cứu thêm các tài liệu khác, tìm đọc các bài diễn đàn về Dạy chính tả trong cuốn” Sách Giáo dục &Thư viện trường học” và đã bắt gặp được những ý tưởng của đồng nghiệp trùng với ý tưởng của mình, 4.Luôn ân cần chỉ bảo, động viên khích lệ học sinh làm cho các em tự tin, hứng thú , tạo ra động lực thúc đẩy sự tiến bộ của các em. Bên cạnh sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được sự ủng hộ của các bậc phụ huynh. Và đặc biệt là những tiến bộ hàng ngày của học sinh. Sự tiến bộ và chăm ngoan của các em đã làm tôi thêm vui, thêm phấn chấn và tự tin vào thành công của mình. VIII. ĐỀ NGHỊ Việc dạy chính tả ở trường Tiểu học cần tập trung vào các “ trọng điểm chính tả”, tránh sự dàn trải, tản mạn thì sẽ khắc phục được các lỗi chính tả do ảnh hưởng của cách phát âm theo phương ngữ; chất lượng, hiệu quả dạy-học chính tả sẽ được nâng cao. Không chỉ giáo viên dạy phân môn Tiếng Việt mới quan tâm đ
File đính kèm:
- SKKN_MON_CHINH_TA_5.doc