SKKN Một số phương pháp giúp học sinh lớp 1 học tốt quy trình tạo hình theo phương pháp Đan Mạch
1. Tên sáng kiến: Một số phương pháp giúp học sinh lớp 1 học tốt quy trình tạo hình theo phương pháp Đan Mạch.
2. Bộ môn (Lĩnh vực) áp dụng sáng kiến: Môn Mĩ thuật lớp 1
3. Tác giả:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Lợi nữ
- Ngày/ tháng/ năm sinh: 13/ 08/ 1986
- Trình độ chuyên môn: Cao đẳng
- Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Lê Ninh – Kinh Môn Hải Dương.
- Điện thoại: 0967161528
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Lê Ninh, xã Lê Ninh – huyện Kinh Môn – tỉnh Hải Dương.
Điện thoại: 03203823181
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Khối1 trường Tiểu học Lê Ninh
u hút sự chú ý, gây tâm lý chờ đón, hồi hộp cho học sinh, không nên “đi ngay” vào nội dung. Mà vận dụng nhiều phương pháp lồng ghép các môn học để tiết học trở nên thú vị hơn. Ngoài ra giáo viên có thể vận dụng tích hợp các môn học để giáo dục kĩ năng sống cho các em. Ví dụ chủ đề : Bình hoa xinh xắn. Giáo viên có thể giáo dục cho hs biết cách sử dụng bình hoa, nếu bình hoa làm bằng chất liệu dễ vỡ thì các em phải lưu ý khi sử dụng có thể gây ra tai nạn. Chủ đề : Thiên nhiên tươi đẹp, giáo viên có thể dạy tích hợp môn ( Tự nhiên xã hội ). Giáo dục hs bảo vệ môi trường. 4.3.3. Phong cách của người giáo viên. Bên cạnh việc chuẩn bị cho trẻ những tiền đề làm phong phú vốn hiểu biết, thì khả năng lôi cuốn các em đi vào hoạt động cũng rất quan trọng. Để lôi cuốn được trẻ tham gia vào hoạt động thì người giáo viên cần phải tìm tòi những sáng kiến mới, những thủ thuật sư phạm và từ đó dùng ngôn ngữ của mình để truyền đạt tới các em một cách sinh động và lôi cuốn. Điều đó muốn nói đến khả năng ứng sử của người giáo viên cũng như ngôn ngữ phong cách đứng lớp thật tự tin, dí dỏm, vui vẻ, ngộ nghĩnh, gây sự chú ý của các em vào hoạt động đặc biệt người giáo viên cũng phải có khả năng tạo hình và tạo ra những tác phẩm đẹp, vì các em học đa số dựa trên sự bắt chước là chủ yếu vì thế đòi hỏi người giáo viên cũng phải đưa ra những hình mẫu đẹp mắt và mang tính nghệ thuật cao. 4.3.4. Chú ý đến phong cách học của từng học sinh. Kết quả của việc học dựa trên khả năng học sinh tập trung và tiếp thu kiến thức mới qua việc sử lí thông tin nằm trong phần mạnh nhất của bộ não. Cách sử lí khác nhau dẫn đến có nhiều phong cách học tập khác nhau trong một lớp học mà giáo viên cần cân nhắc khi lập kế hoạch và tổ chức hoạt động dạy – học. Phong cách học toàn diện: Học sinh thường chú ý đến tổng thể và sự khái quát hơn trước khi đi vào chi tiết, những hs này thường thích làm việc theo nhóm, trong một không gian mở và không khí vui vẻ thân thiện. Phong cách học theo thứ tự: Học sinh thích tìm hiểu chi tiết trước khi vào tổng thể, những hs này muốn thông tin được thể hiện theo thứ tự trước sau và sắp xếp theo tầm quan trọng thường thích làm việc một mình, trong một không gian yên tĩnh. Phong cách học linh hoạt: Kết hợp cả 2 phong cách trên, học sinh thường tự điều chỉnh cách học của mình để thích nghi với môi trường học và tình huống thực tế. Phát huy năng lực tư duy, sáng tạo của học sinh. Dạy học mĩ thuật nên được tổ chức thành các hoạt động nghệ thuật 2 chiều, ba chiều, bốn chiều, nhằm đem lại sự thích thú trong học tập cho hs, qua đó hình thành năng lực thẩm mĩ, năng lực sáng tạo và nhân cách của hs. Trong hoạt động dạy học mĩ thuật, giáo viên đóng vai trò định hướng, tổ chức hướng dẫn gợi mở, cho hs tham gia các hoạt động cụ thể để các em có thể tự khám phá và chiếm lĩnh những kiến thức, kĩ năng, từng bước hình thành các phẩm chất, năng lực cần thiết. Ngoài các chủ đề trong sách học Mĩ thuật, giáo viên cho học sinh làm một số chủ đề khác gần gũi, quen thuộc đối với học sinh. Ví dụ: Chủ đề: “Giúp mẹ việc nhà”, hay chủ đề : “ Bé yêu”. Như vậy tùy theo trình độ năng lực của học sinh mà các em có thể sáng tạo ra nhiều hình thức khác nhau trong cùng một chủ đề. Với cách dạy như vậy sẽ phát huy được năng lực tư duy, khả năng sáng tạo của các em. 4.3.4. Xây dựng bầu không khí lớp học thân thiện. Mục đích:Tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Học sinh cảm nhận được sự thoải mái khi việc học của mình vừa gắn với kiến thức trong sách vở, vừa thông qua sự trải nghiệm của chính bản thân trong các hoạt động tập thể. 4.3.4.1.Biện pháp thực hiện: Để các học sinh tự tin hơn khi thực hiện các sản phẩm của mình thì rất cần một môi trường học tập thân thiện. Phong trào này cũngđã được Bộ Giáo dục-Đào tạo triển khai trong toàn ngành từ những năm gần đây, được xác định gồm 5 nội dung. Đó là: - Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn. - Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh ở mỗi địa phương, giúp các em tự tin trong học tập. - Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. - Tổ chức các hoạt động tập thể, vui tươi, lành mạnh. - Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương. Do đó muốn xây dựng môi trường học tập thân thiện thì cũng phải thực hiện tốt các nội dung trên, nhưng ở phạm vi lớp học và tùy tình hình học sinh, cơ sở vật chấtmà giáo viên tổ chức cho phù hợp.Trước hết giáo viên cần thể hiện phong cách giao tiếp thực sự tôn trọng học sinh. Tất cả bề ngoài hình thức như dáng đi, đứng, cử chỉ, điệu bộ, thái độ, ngôn ngữ đều phải thể hiện được sự thân thiện.Luôn giao tiếp thân thiện với học sinh trong mọi tình huống. Đại đa số học sinh tiểu học, nhất là đối với các em lớp Một, các em mới bước vào môi trường học tập thực sự nên các em rất ngại tiếp xúc với thầy cô, thậm chí có em sợ thầy cô hơn cả cha mẹ. Vậy làm thế nào để các em mạnh dạn hơn thì giáo viên phải gần gũi, thân tình để các em dễ hoà đồng vào môi trường tập thể. Nếu các em nhận ra ở thầy cô một sự bảo bọc che chở, nhất là sự quan tâm, cảm thông thực sự, các em sẽ dần dần quấn quýt, tin cậy gần như tuyệt đối và thầy cô như là thần tượng của các em. Để làm được điều này thì cách nói, âm vực lời nói là vô cùng quan trọng. Có nghĩa là giáo viên chỉ phát âm vừa đủ nghe, tránh quát tháo, lớn tiếng dễ gây tâm lý sợ học, sợ thầy cô cho học sinh.Thời gian đầu của lớp 1 các em còn gặp khó khăn do chưa quen bạn và cô giáo, khó tiếp thu trong khi học, tính kỉ luật chưa cao. Giáo viên phải biết điều chỉnh, tạo không khí hào hứng trong lớp học song vẫn giữ được tính kỉ luật, trật tự. Cho phép các em trao đổi ý kiến, xem, nhận xét bài bạn, nhưng giáo viên phải nhắc nhở những học sinh mải chơi, nói chuyện riêng ngoài việc học vẽ. Mặt khác Mĩ thuật là một bộ môn phụ thuộc nhiều vào năng khiếu của từng cá nhân, do đó giáo viên không nên đòi hỏi quá nhiều ở các em. Học sinh hoàn thành sản phẩm đúng theo nội dung chủ đề, qua mỗi giờ học các em có thể nhận xét, đánh giá cái đẹp – cái chưa đẹp đã là thành công. Mỗi lời động viên, khích lệ dù rất nhỏ của giáo viên cũng có thể là một động lực lớn để các em cố gắng. Khi học sinh thực hành, giáo viên cần phải theo dõi, quán xuyến chung, điều chỉnh, bổ sung những gì mà đa số học sinh chưa rõ hoặc còn lúng túng. Theo dõi giúp học sinh kém, động viên khích lệ học sinh khá, cụ thể là: + Gợi ý học sinh nhận ra những thiếu sót ở bài vẽ để học sinh rút kinh nghiệm và tự sửa chữa. + Động viên, khích lệ học sinh khá, giỏi tạo điều kiện cho các em suy nghĩ tìm tòi thêm, nâng cao hiệu quả sáng tạo ở bài vẽ. Ví dụ như khi học sinh vẽ biểu đạt : Tùy điều kiện thực tế, giáo viên khuyến khích học sinh lựa chọn chất liệu, màu sắc phù hợp để vẽ nhằm tăng tính biểu cảm. Giáo viên nên đi và quan sát cả lớp, đặt câu hỏi để giúp các em lựa chọn được màu sắc và nội dung đạt chất lượng. sau hoạt động này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh dùng khung tự tạo để xác định bố cục bức tranh trong Vẽ chân dung, và cả những bức tranh khác được sáng tạo trong suốt quá trình học mĩ thuật, tạo cho các em cách nhìn thẩm mĩ và phương pháp trình bày tác phẩm khi trưng bày bằng những câu hỏi gợi ý như: - Em muốn thể hiện điều gì và em thể hiện nội dung đó như thế nào trong bức tranh này? - Tại sao em sử dụng màu này? - Hình ảnh trong tranh của em có theo những gì em muốn thể hiện không? - Trong bài vẽ của mình, em muốn thêm hay bỏ chi tiết nào? Lí do?... Mặt khác, dù dạy theo phương pháp cũ hay mới, giáo viên chuyên trách Mĩ thuật luôn gặp khó khăn chung với đối tượng học sinh lớp Một đó là : Các em không dám vẽ, sợ vẽ xấu các bạn chê cười, hay sao chép hoặc bắt chước ý tưởng của bạn. Khi vẽ các em hay tẩy xóa, thường vẽ hình quá nhỏ. Đây là hạn chế mà các em thường mắc phải nhiều. Nhất là giai đoạn đầu năm, các em còn bỡ ngỡ do chưa quen, thậm chí có em chưa một lần cầm bút vẽ, chưa nhận biết được tên các màu. Giáo viên phải biết cách phát huy các mặt mạnh của học sinh, luôn khen ngợi những học sinh có nét vẽ ngộ nghĩnh, động viên, khích lệ học sinh còn yếu. Động viên khích lệ kịp thời một tiến bộ dù nhỏ nhất của các em. Điều này sẽ giúp các em bớt mặc cảm tự ti và có tinh thần học tập hơn. Có em vẽ hình rất đẹp nhưng lại hay tẩy xoá vì các em sợ sai, vì các em chưa nhìn thấy được cái đẹp trong tranh của mình. Ngoài việc giải thích, giáo viên cần so sánh bài vẽ đẹp và chưa đẹp để học sinh hiểu thêm. Đồng thời nên tuyên dương thường xuyên những nỗ lực dù rất nhỏ của các em để các em tự tin hơn trong học tập. Học sinh lớp 1A giải lao giữa tiết 4.3.4.2.Tăng cường tổ chức các trò chơi lồng ghép vào quá trình học tập. Bên cạnh hoạt động học là chủ đạo thì nhu cầu chơi, giao tiếp với bạn bè của các em học sinh lớp Một cũng không thể thiếu. Nếu giáo viên biết phối hợp nhịp nhàng giữa nhiệm vụ của hoạt động học với sự thỏa mãn nhu cầu chơi, giao tiếp của các em "Học mà chơi, chơi mà học" thì các em sẽ hăng hái, say mê học tập và một điều tất yếu là kết qủa học tập của các em sẽ được nâng lên. Đây cũng là một phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trên cơ sở khai thác đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Khi tổ chức trò chơi,giáo viên cần lưu ý: + Lựa chọn trò chơi vừa sức với học sinh.Các em học đấy nhưng phải vui, khi vui thích thì việc học tập sẽ là tự nguyện, không bị gò ép, thúc bách. Khi học mà như chơi thì việc học sẽ trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, học sẽ trở thành là một trong những nhu cầu của học sinh. Song cần tìm những trò chơi sao cho nhiều em được tham gia sẽ phát huy tính tích cực hơn. Giáo viên cần lưu ý cần lựa chọn các trò chơi làm cho học sinh tự khám ra nội dung bài học một cách chủ động, thích thú và ghi nhớ được kiến thức một cách tự nhiên và sâu sắc. Trò chơi có chứa đựng những chủ đề, nội dung nhất định, có những quy chế nhất định mà học sinh phải tuân thủ. Trò chơi vừa mang tính chất vui chơi giải trí song đồng thời lại có ý nghĩa giáo dục. Dạy học bằng phương pháp tổ chức trò chơi là đưa học sinh đến với các hoạt động vui chơi giải trí nhưng có nội dung gắn liền với bài học.Trò chơi trong học tập có tác dụng giúp học sinh hăng say vào học tập, chống mệt mỏi, tránh làm cho tiết học nặng nề nhàm chán, tăng cường khả năng thực hành kiến thức của bài học, phát huy hứng thú, tạo thói quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo của học sinh, lôi cuốn các em vào những hoạt động học tập. Hay nói cách khác: trò chơi học tập là hoạt động được tổ chức có tính chất vui chơi, giải trí nhưng có nội dung gắn với bài học hay hoạt động học tập của học sinh. + Tổ chức vào thời điểm thích hợp.Trong thực tế dạy học, giáo viên thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để giới thiệu bài hay hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới. Do đó giáo viên nên linh hoạt tổ chức ở những thời điểm khác nhau nhằm tạo sự bất ngờ và giảm căng thẳng của giờ học. + Lôi cuốn tất cả học sinh của lớp cùng tham gia.Trò chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn học sinh nên duy trì tốt hơn sự chú ý của các em với bài học. Trò chơi làm thay đổi hình thức học tập chỉ bằng hoạt động trí tuệ, do đó giảm tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là các giờ học kiến thức mới. Trò chơi có nhiều học sinh tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kỹ năng học tập hợp tác cho học sinh, tăng cường khả năng giao tiếp và giúp các em rèn kỹ năng hợp tác.Có thể nói điều khiển tiến trình một cuộc chơi với học sinh lớp Một sao cho sôi nổi, sinh động, hấp dẫn lôi cuốn được tất cả các em tham gia chơi một cách thích thú nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu tiết học là không dễ. Vì nếu tổ chức sơ sài hoặc mang tính chất hình thức thì học sinh tham gia một cách miễn cưỡng, có em còn nhân dịp này để làm việc riêng, đùa giỡn gây mất trật tự lớp học. Còn nếu tổ chức quá chú trọng vào phần chơi mà quên đi phần học thì giáo viên sẽ khó mà quản lý lớp học đi đúng hướng. Một số trò chơi có thể áp dụng như: thi vẽ nhanh, vẽ đẹp, tưởng tượng từ hình có sẵn vào đầu, cuối tiết học hoặc trước khi thực hành. Đây chính là thời gian để các emluyện vẽ và tăng cường khả năng vẽ nhanh, vẽ đẹp và giúp các em phấn chấn tinh thần, hăng hái học tập hơn. Các em học sinh lớp 1D đang chơi trò chơi thi vẽ nhanh vẽ đẹp - Trò chơi :Ai nhanh hơn.Luật chơi: Mỗi nhóm cử 1 đại diện lên vẽ nhiều con vật nuôi ( hoặc vẽ một tranh). HS dưới lớp hát 1 bài. Khi hát hết bài thì các đội thi vẽ phải ngừng tay. Đội nào có học sinh vẽ nhanh, vẽ nhiều con vật (hoặc tranh đẹp nhất) là đội thắng cuộc Khi tổ chức trò chơi, giáo viên cần đánh giá cao phần tham gia của các đội, không làm qua loa đại khái, có khen thưởng, tuyên dương kịp thời cũng là một biện pháp làm cho học sinh thêm tích cực vì em nào cũng thích được khen, được thầy cô quan tâm đến việc làm của mình. Bên cạnh đó cần động viên những đội còn lại để các em cố gắng hơn ở lần sau. Sau mỗi lần chơi giáo viên cần nhận xét đánh giá kết quả của học sinh. Dựa vào yêu cầu, nội quy chơi, kết quả cuộc chơi giáo viên đánh gía cuộc chơi và phân loại thắng thua thật công bằng, rõ ràng. Giáo viên phải hết sức lưu ý vấn đề này vì đôi khi có giáo viên nêu yêu cầu và luật chơi rất khắt khe nhưng khi đánh giá kết quả lại đại khái, không chính xác hoặc không công bằng vì vậy sẽ làm cho học sinh mất phấn khởi, đôi khi các em biểu lộ sự phản đối với sự đánh giá đó và không chấp nhận kết luận của giáo viên. Để đánh giá đúng thực chất của cuộc chơi, giáo viên phải thống kê ra được những ưu điểm, nhược điểm của từng đội tham gia chơi. Tuy nhiên vẫn cần sự đánh giá nhẹ nhàngmang tính chất động viên, khích lệ là chính, tránh tình trạng đánh giá để các em buồn và xấu hổ với bạn bè khi không thắng trò chơi. * Kết quả sau khi áp dụng:Nhiều học sinh hăng hái phát biểu và thíchđược phát biểu,thích tham gia nhận xét, đánh giá, hứng thú tham gia trò chơi học tập. Đặc biệt các em tập trung trong học tập hơn, không còn hiện tượng nói chuyện riêng, làm việc riêng trong giờ học. 4.4.Tổ chức hình thức học tập theo quy trình hiệu quả nhất. Mỗi quy trình theo phương pháp Đan mạch đều có mục tiêu giáo dục khác nhau để giúp học sinh có thể phát triển khả năng tự học.Khi lựa chọn quy trình cần chú ý sắp xếp trình tự các bước sao cho có sự kết hợp hài hoà giữa phương pháp, nội dung và hình thức tổ chức lớp học. Vì nếu lựa chọn quy trình không phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng học sinh học tập chán nản, thiếu ý tưởng sáng tạo. SƠ ĐỒ HÌNH THÀNH CÁC NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH Ví dụ: nếu là chủ đề: “Những con vật ngộ nghĩnh” thì chỉ nên vận dụng quy trình tạo hình (nặn) hoặc Vẽ, còn quy trình Tạo hình từ vật tìm được sẽ gây ra khó khăn hơn với các em lớp 1 trong việc tìm kiếm và chuẩn bị đồ dùngDù vận dụng quy trình dạy học nào thì người giáo viên đều phải hiểu được các năng lực của hs đều được phát triển và hỗ trợ lẫn nhau ( Sơ đồ hình thành năng lực của học sinh ). 4.4.1.Xây dựng các nội dung giúp học sinh trải nghiệm. Học sinh thích học thông qua các họat động nên giáo viên không nên sử dụng hình thức thuyết giảng mà nên dạy học tích cực, dạy học tương tác, lý thuyết gắn với thực hành. Học sinh được nói, được làm và vận dụng ngay thì sẽ dễ dàng tiếp thu kiến thức và nhớ lâu bền.Trong giáo dục mĩ thuật, học sinh được phát triển không ngừng và có sự khác biệt ở mỗi em về khả năng quan sát, trí tưởng tượng, trí nhớ, cách thức thể hiện con người, con vật, đồ vật về hình dáng, đặc điểm, cấu trúc, tỉ lệ...Học sinh được kích thích thông qua các khả năng của bản thân cũng như trải nghiệm với người khác như: những thành viên trong gia đình, bạn bè và thậm chí những người mới quen biết, với con vật yêu thích, đồ vật thân quen. Học sinh bị ảnh hưởng thông qua tiếp xúc với sự vật, hiện tượng xung quanh thông qua các kênh thông tin như: ti vi, tạp chí, sách vở, truyện tranh, quảng cáo, internet và các tác phẩm điêu khắc công cộng. Dần dần học sinh nhận biết được những cách thức thể hiện hình ảnh con người khác nhau về hình dáng, cấu trúc, tỉ lệ như: phác họa con người, biểu cảm của nhân vật, biểu tượng người khái quát... Do đó việc để học sinh trải nghiệm rất quan trọng, tùy theo từng chủ đề mà giáo viên lựa chọn các hoạt động cho phù hợp giúp học sinh nhớ lại kiến thức, những kỷ niệm và tưởng tượng, đồng thời cho các em cơ hội chia sẻ những gì các em đã biết khi trình bày về sở thích, mối quan tâm, mơ ước hay ý tưởng. Qua quá trình này học sinh sẽ có được những kiến thức thực tế để gợi mở cách nhìn nhận, cảm giác, sự tò mò, trí nhớ, trí tưởng tượng và phát triển sức sáng tạo và biểu đạtthông qua việc được nghe kể chuyện, chia sẻ những trải nghiệm của bản thân về chủ đề liên quan, xem tranh ảnh, hoặc tổ chức các trò chơi phù hợp với từng lớp học. Ví dụ: Ở chủ đề: “Những con cá đáng yêu” giáo viên nên tổ chức cho học sinh kể về con cá em thích nhất (hình dáng, màu sắc, đặc điểm nổi bật). Hay chủ đề: “Em và bạn em”giáo viên tổ chức cho học sinh tạo dáng sẽ thấy ngay hiệu quả bất ngờ. Vì tạo dáng gây hứng thú học tập, giúp cho học sinh nâng cao hiểu biết về những tình huống sự kiện từ đời sống hàng ngày của các em. Học sinh tự tạo lại các dáng hoạt động từ những tình huống trong hoạt động chơi, làm việc hoặc học tập. Các em dễ dàng nắm bắt được hình dáng, tư thế của người khi hoạt động để vẽ, tạo hình. 4.4.2. Kế hoạch giảng dạy một chủ đề. Mặc dù không có bất cứ một hướng dẫn cụ thể nào về việc xây dựng kế hoạch dạy học, nhưng theo chúng tôi mỗi chủ đề cần được thực hiện các tiết theo thứ tự như sau: Ví dụ: Chủ đề Vườn rau của bác nông dân(Mĩ thuật 1) – thực hiện 3 tiết. Trong đó: Tiết 1:Hướng dẫn học sinh tìm hiểu chủ đề,giáo viên gợi ý học sinh tìm hiểu đặc điểm của các loại rau củ thông qua các câu hỏi gợi ý để các em thảo luận. Tổ chức trò chơi Thi vẽ nhanh một loại rau củ mà em biết.Học sinh tìm ra cách vẽ rau củ sau khi trải nghiệm trò chơi.Sau đó giáo viên đi tiếp vào phần hướng dẫn thực hiện. Học sinh trong nhóm trao đổi và học hỏi cách vẽ. Tiết 2:Hướng dẫn thực hành,giáo viên cho các em hoạt động cá nhân thảo luận và phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm để lựa chọn chất liệu và loại rau củ để tạo kho hình ảnh, sau đó hoạt động nhóm giáo viên đưa ra câu hỏi cho các em thảo luận nhóm tự tìm hiểu về cách sắp xếp các loại rau, củ, trong kho hình ảnh để phát triển ý tưởng sáng tạo của học sinh. Tiết 3:Trưng bày sản phẩm.Các nhóm tiếp tục hoàn thành bài vẽ và trưng bày sản phẩm.Giáo viên tổ chức cho học sinh xem và nêu cảm nhận của cá nhân. * Kết quả sau khi áp dụng giải pháp: Giáo viên không còn lúng túng khi lên lớp, các hoạt động diễn ra theo trình tự một cách khoa học và gắn kết với nhau. Học sinh dễ tiếp thu bài hơn, hiệu quả sáng tạo tăng lên rõ rệt. 4.4.3. Vận dụng linh hoạt quy trình Mĩ thuật mới phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường. * Mục đích: Tạo cơ hội cho học sinh thích học và học thực sự dựa trên những gì các em đã biết, những gì liên quan đế sở thích của các em. * Biện pháp thực hiện:Bảy quy trình mĩ thuật theo phương pháp mới bao gồm: 1. Quy trình Vẽ cùng nhau và sáng tạo các câu chuyện. 2. Quy trình Vẽ biểu cảm. 3. Quy trìnhTrang trí và vẽ tranh qua âm nhạc. 4. Quy trình Xây dựng cốt truyện. 5. Quy trình Tạo hình từ dây thép và vật tìm được. 6. Quy trình Điêu khắc – Nghệ thuật tạo hình không gian. 7. Quy trình Tạo hình con rối và biểu diễn nghệ thuật. Giáo viên tạo hứng thú cho học sinh bằng cách lập nên các quy trình dạy - học mĩ thuật tích hợp, linh hoạt theo chủ đề liên quan đến kinh nghiệm cá nhân, tâm lý lứa tuổi và kiến thức của học sinh. Tùy điều kiện cơ sở vật chất mà giáo viên tổ chức các hoạt động học tập vận dụng linh hoạt 7 quy trình Mĩ thuật mới. Khi thực hiện tích hợp các quy trình dạy - học giáo viên cần chú ý: - Xây dựng dựa trên những gì học sinh đã biết, và những gì liên quan đến sở thích, mối quan tâm của các em. - Để
File đính kèm:
- skkn_mot_so_phuong_phap_giup_hoc_sinh_lop_1_hoc_tot_quy_trin.doc