Sáng kiến kinh nghiệm - Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học lớp 8 - Huỳnh Thị Cẩm Hẹ

Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy và tìm hiểu thực tiễn tại trường THCS Vĩnh Chánh, tôi thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức cơ bản của phân môn Hình học, chất lượng bộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm tra, bài thi còn chưa đạt yêu cầu. Bằng thực tiễn trong giảng dạy và tìm hiểu đã có những ý kiến như: phân môn hình học khó tiếp thu, lượng kiến thức trong giờ học còn nhiều mà lại khô khan, không hấp dẫn Điều đó nãy sinh trong tôi những trăn trở: Là làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ môn? Làm thế nào để học sinh hứng thú, say mê trong khi học? Có biện pháp gì để tạo hứng thú say mê tìm tòi sáng tạo, vận dụng những gì đã học vào thực tiễn? Với mong muốn tìm ra những đáp án đó, đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học lớp 8”

 Hướng dẫn học sinh tiếp thu môn Toán nói chung, môn Hình học nói riêng đạt kết quả cao không phải là chuyện nói đến đâu làm ngay được đến đó. Muốn đạt hiệu quả giảng dạy đòi hỏi một mặt kiến thức của người thầy phải vững, phải sâu, phải có phương pháp phù hợp; mặt khác đòi hỏi người thầy có kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm thật khéo léo. Bởi vậy biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học 8 là một nội dung có tính chất quan trọng và lâu dài đối với nhà trường nói chung và từng giáo viên nói riêng. Khi xây dựng đề tài này bản thân tôi hướng đến mục đích cụ thể như vậy nhằm triển khai có hiệu quả phương pháp mà mình đã tích lũy qua nhiều năm làm công tác giảng dạy môn Toán cho học sinh THCS.

 

doc18 trang | Chia sẻ: xuannguyen98 | Lượt xem: 617 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm - Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học lớp 8 - Huỳnh Thị Cẩm Hẹ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 nay: Giáo viên dạy lớp 	
- Lĩnh vực công tác: Giảng dạy môn Toán khối 8, 9 ; chủ nhiệm lớp 8.
II. Tên sáng kiến: 
 “Một số biện pháp tạo hứng thú cho Học sinh học phân môn Hình học lớp 8”
III. Lĩnh vực: Chuyên môn TOÁN
 IV. Mục đích yêu cầu của sáng kiến:
Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến
	Với đối tượng học sinh lớp 8 các em đã bắt đầu có biểu hiện của lứa tuổi “ tập làm người lớn” nên lời khen, lời động viên đối với các em phát huy hiệu quả không nhỏ. Bởi nó đã tác động vào thế giới tâm lí, tình cảm của các em khiến nảy sinh hứng thú về vấn đề đang được đặt ra hướng các em đến với những hành vi tự giác, chủ động và tích cực trong việc chiếm lĩnh tri thức. Đặc biệt với học sinh có biểu hiện chán học, khó tiếp thu hoặc không có tinh thần tiếp thu kiến thức sẽ khiến các em rơi vào tình trạng học sa sút. Bởi vậy người giáo viên phải dùng cái tâm của mình để giúp các em vượt qua trở ngại này vươn lên trong học tập. Và khi ấy người giáo viên thực sự dành cho các em một sự động viên, khích lệ kịp thời để tạo ra một bước đột phá trong học tập. Khi xác định được mục đích, ý nghĩa lớn lao của vấn đề này mới có thể xây dựng được phương pháp phù hợp nhất.
Vấn đề giảm tỉ lệ học sinh yếu kém không phải là vấn đề mới mẻ trong giáo dục hiện nay, song là vấn đề cấp thiết phải làm để đưa nền giáo dục phát triển đáp ứng xu thế phát triển của xã hội
Điều mới ở đây là để giảm tỉ lệ hs yếu kém giáo viên dạy toán không chỉ dạy toán mà còn phải hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác như: giáo dục đạo đức cho học sinh, tham gia hoạt động cộng đồng nhất là quan hệ với phụ huynh và các tổ chức xã hội khác, kết hợp với các giáo viên khác, gần gũi học sinh kết hợp đồng bộ các hoạt động thì mới đem lại hiệu quả cao trong giảng dạy, mới đẩy lùi được tình trạng hs yếu kém về môn toán nhiều hơn
Qua điều tra về mức độ hứng thú học môn Hình học của lớp 8A1 đầu năm cho thấy kết quả:
Tổng số HS
Số HS có hứng thú
Số HS không có hứng thú
SL
%
SL
%
30
2
6,7
28
93,3%
	Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm phân môn Hình học khiến bất cứ ai nhìn vào củng cảm thấy lo ngại ,cụ thể:
TSHS
Khá giỏi
Trung bình
Yếu kém
SL
%
SL
%
SL
%
30
0
0
3
10%
27
90,0%
Kết quả khảo sát đầu năm môn toán
Tổng số HS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
30
2
6,7
2
6,7
21
70
2
6,7
3
10
Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đã xác định “phương pháp dạy học Toán trong nhà trường các cấp phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học, trau dồi các phẩm chất linh hoạt , độc lập sáng tao của tư duy”. Bắt nguồn từ định hướng đó giáo viên cần phải học hỏi nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng những phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng vùng miền, từng đối tượng học sinh, từng kiểu bài làm cho hiệu quả giờ học đạt cao nhất. .
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy và tìm hiểu thực tiễn tại trường THCS Vĩnh Chánh, tôi thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức cơ bản của phân môn Hình học, chất lượng bộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm tra, bài thi còn chưa đạt yêu cầu. Bằng thực tiễn trong giảng dạy và tìm hiểu đã có những ý kiến như: phân môn hình học khó tiếp thu, lượng kiến thức trong giờ học còn nhiều mà lại khô khan, không hấp dẫn Điều đó nãy sinh trong tôi những trăn trở: Là làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ môn? Làm thế nào để học sinh hứng thú, say mê trong khi học? Có biện pháp gì để tạo hứng thú say mê tìm tòi sáng tạo, vận dụng những gì đã học vào thực tiễn? Với mong muốn tìm ra những đáp án đó, đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học lớp 8”
 Hướng dẫn học sinh tiếp thu môn Toán nói chung, môn Hình học nói riêng đạt kết quả cao không phải là chuyện nói đến đâu làm ngay được đến đó. Muốn đạt hiệu quả giảng dạy đòi hỏi một mặt kiến thức của người thầy phải vững, phải sâu, phải có phương pháp phù hợp; mặt khác đòi hỏi người thầy có kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm thật khéo léo.. Bởi vậy biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học 8 là một nội dung có tính chất quan trọng và lâu dài đối với nhà trường nói chung và từng giáo viên nói riêng. Khi xây dựng đề tài này bản thân tôi hướng đến mục đích cụ thể như vậy nhằm triển khai có hiệu quả phương pháp mà mình đã tích lũy qua nhiều năm làm công tác giảng dạy môn Toán cho học sinh THCS.
Nội dung sáng kiến 
 3.1. Tiến trình thực hiện: Thưc hiện sáng kiến theo trình tự như sau:
	Tạo sự hấp dẫn cho học sinh khi tìm hiểu về kiến thức mới
	Tạo không khí “học mà vui, vui để học” trong những tiết ôn tập
	Tạo hứng thú cho học sinh khi áp dụng kiến thức vào thực tiễn
	Tạo không khí nhẹ nhàng, sôi nổi cho học sinh khi giải bài tập
 Tạo động lực, hứng thú cho học sinh khi vẽ hình
 3.2. Thời gian thực hiện: Sáng kiến được áp dụng trong năm học 2014-2015
 3.3. Biện pháp tổ chức:
	CÁC BIỆN PHÁP NHẰM TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH HỌC PHÂN MÔN HÌNH HỌC 8 
 Có thể khẳng định rằng việc dạy học là một công việc vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Vậy nên với việc dạy học đòi hỏi người giáo viên cần có năng lực sư phạm vững vàng, phương pháp giảng dạy phù hợp theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động trong việc chiếm lĩnh kiến thức. Chính vì lẽ đó việc tạo cho học sinh niềm hứng thú trong học tập phân môn Hình học hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của giáo viên. Ngoài việc lên lớp người giáo viên phải không ngừng học hỏi, tìm tòi tài liệu có liên quan để làm sao có thể truyền thụ cho học sinh một cách nhẹ nhàng, dể hiểu, phù hợp với khả năng tiếp thu của từng đối tượng học sinh.
 Bám sát định hướng chung của ngành trong việc đổi mới phương pháp dạy học Toán ở trường THCS là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển năng lực tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm say mê, hứng thú học tập cho các em. Đặc biệt những năm học gần đây toàn ngành đang thực hiện phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì việc tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng chính là tạo cho các em có niềm tin trong học tập, khơi dậy trong các em ý thức “ mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Đó chính là cơ sở để khẳng định tạo hứng thú cho học sinh học tập nói chung, phân môn Hình học nói riêng trở thành một đòi hỏi đối với người làm công tác giảng dạy.
Bản thân tôi là một giáo viên đã trực tiếp giảng dạy môn Toán 8 được nhiều năm từ khi đổi mới chương trình SGK phổ thông, tôi thấy rằng:
Trong trường THCS môn Toán là môn khoa học luôn được chú trọng cao và cũng là môn có nhiều khái niệm trừu tượng. Nhất là phân môn Hình học có nhiều khái niệm trừu tượng nhất, bởi khi thực hiện các bài làm đối với hình vẽ lại phải “ mở rộng” các yếu tố như: vẽ thêm đường phụ để chứng minh, điểm, đường thẳng hay suy luận.... Kiến thức trong bài tập phong phú rất nhiều so với nội dung lí thuyết mới học. Bên cạnh đó yêu cầu bài học lại cao phải suy diễn chặt chẽ, lôgic.
 Nếu phân môn Đại số các dạng bài tập thường có cách làm rất rõ ràng, chẳng hạn như: khi chia đa thức một biến đã sắp xếp, giải phương trình chứa ẩn ở mẫu thức, giải bài toán bằng cách lập phương trình thì SGK đưa ra các bước giải rất cụ thể; thì phân môn Hình học lí thuyết vừa ít lại trừu tượng, các hướng đi cụ thể ít nên học sinh khó định hướng cách làm. Hơn nữa sự chênh lệch giữa kiến thức lí thuýêt với lượng bài tập và thời gian luyện tập lại quá lớn. Do đó rất khó khăn trong việc chữa bài tập cho học sinh làm ở nhà, chọn bài để hướng dẫn trên lớp sao cho đầy đủ kiến thức cơ bản mà SGK yêu cầu. 
 Học sinh khó khăn trong việc lập luận, suy diễn lôgic đã tạo nên thái độ miễn cưỡng, chán nản ở các em. Từ đó nhiều em không nắm được kiến thức cơ bản, làm bài tập ở nhà cũng chỉ đối phó, lúng túng trong việc chọn và sử dụng dụng cụ để vẽ hình..... Điều này cho thấy giáo viên phải bỏ nhiều công sức để nghiên cứu, chọn lọc cho mình một cách soạn giảng tốt nhất để tạo hứng thú cho học sinh trong bài giảng. 
	Trên cơ sở đó, tôi nghĩ giáo viên cần phải xây dựng được cho học sinh một sự hứng thú, kích thích tính tò mò, tự giác tìm hiểu về môn học. Bằng kinh nghiệm hiểu biết và tìm hiểu qua nhiều thông tin tôi có một số giải pháp như sau:
 A. Tạo sự hấp dẫn cho học sinh khi tìm hiểu về kiến thức mới.
- Với học sinh THCS ở lứa tuổi các em rất hiếu động, thích tò mò, khám phá và muốn được mọi người công nhận năng lực của mình, không thích bị áp đặt, phê bình. Điều này cho thấy khi truyền thụ kiến thức cho học sinh giáo viên phải lựa chọn những phương pháp phù hợp, nhẹ nhàng, kích thích được tính tò mò của các em để xuất hiện nhu cầu khám phá, từ đó các em có tâm lý để chinh phục kiến thức.
- Như vậy, phải làm thế nào để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học? Rõ ràng để làm được điều này, giáo viên phải đầu tư thật kỹ cho tiết dạy của mình. Riêng tôi, khi dạy tiết Hình, thường chọn cho mình một phương pháp tạo tình huống từ những vấn đề thực tiễn như: Đưa ra một hình huống trong thực tế hoặc kể một câu chuyện có liên quan mật thiết đến toán học. Từ đó, học sinh tham gia tiết học tích cực, hào hứng hơn, các em không còn cảm giác bị gò ép, căng thẳng và chán nản nữa, đồng thời các em sẽ nhận thức được tính thực tiễn của bộ môn.
Chẳng hạn: 
. C
 Khi dạy bài “Đường trung bình của tam giác” tôi đưa ra vấn để làm thế nào để gián tiếp đo khoảng cách giữa hai điểm B, C ở hai bên bờ ao.
B .
H
Khi dạy bài “Đối xứng trục” vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để cắt được một chữ H nhanh từ tờ giấy hình chữ nhật.
Khi dạy bài “Hình thoi” tôi hỏi vì sao các thanh sắt ở cửa xếp lại dễ dàng đầy vào, kéo ra được.
Với bài “ Diện tích hình thang” để học sinh nhớ công thức tôi cho các em ghi nhớ theo câu nói vần: 
“Muốn tính diện tích hình thang , 
đáy lớn đáy bé ta mang cộng vào, 
rồi 
đem nhân với chiều cao, 
chia đôi lấy nửa thế nào cũng ra”.
	SABCD = 
- Mỗi kiểu bài đều có một đặc thù riêng và phương pháp dùng hình ảnh trực quan rất thích hợp đối với hình học: mô hình, vật thật, tranh vẽ là yếu tố không thể thiếu khi vào tiết dạy. Ngoài ra giáo viên nên tìm tòi những vật thật trong thực tế để tạo sự mới lạ và thú vị cho học sinh, như dạy bài đường thẳng song song cách đều tôi chỉ cho học sinh hình ảnh các song cửa sổ, các thanh rui mèn ở mái nhà, dạy bài diện tích đa giác tôi yêu cầu học sinh về nhà xem diện tích mảnh vườn nhà mình mấy m2  
Vận dụng cách làm đó lớp học rất vui vẻ, học sinh tham gia xây dựng bài tích cực, đồng thời các em sẽ nhớ và vận dụng làm bài tập nhanh hơn và lâu hơn.
- Trong mỗi tiết dạy tôi chủ động phân định đối tượng học sinh theo 3 cấp: khá giỏi, trung bình, yếu kém để giao nhiệm vụ phù hợp với từng đối tượng từ đó lôi cuốn tất cả các em cùng tham gia vào xây dựng bài học. Câu hỏi của giáo viên cũng cần phải gợi mở, dể hiểu để kích thích sự suy nghĩ của các em.
Ví dụ: Khi xây dựng Đinh lý Ta-lét trong bài “Định lý Ta-lét trong tam giác”. 
A
B
C
B’
C’
Giáo viên treo bảng phụ ?3
Gợi ý: Vì các đường kẻ ngang là các đường thẳng song song cách đều nên các đoạn liên tiếp trên AB bằng nhau, các đoạn liên tiếp trên AC cũng bằng nhau.
Giả sử lấy m làm đơn vị một đoạn chắn trên AB, n làm đơn vị một đoạn chắn trên AC.
Hỏi học sinh kém đoạn AB’ mấy đơn vị?
Hỏi học sinh yếu tỉ số ; từ đó so sánh hai tỉ số 
Gọi học sinh trung bình so sánh hai trường hợp còn lại 
Yêu cầu học sinh khá phát biểu thành định lý từ bài toán trên.
Gọi học sinh giỏi nêu GT, KT.
Làm như vậy trong một tiết học tôi huy động hết đối tượng học sinh vào xây dựng bài học.
B. Tạo không khi “học mà vui,vui để học” trong những tiết ôn tập.
- Môn Hình học sau mỗi phần hoặc chương giáo viên phải hệ thống hoá kiến thức trọng tâm, để tạo hứng thú cho học sinh bằng cách tạo ra những cách chơi: Hệ thống kiến thức bằng sơ đồ hoặc bảng rồi yêu cầu học sinh điền vào những chỗ trống. Việc làm này giúp học sinh nhận thấy sự liên quan giữa các phần đã học. Từ đó các em khắc sâu kiến thức và nhớ lâu hơn.
Chẳng hạn: Phần “Tứ giác” giáo viên chuẩn bị sơ đồ về mối liên hệ của các tứ giác trên bảng phụ kết hợp với các hiệu ứng trình chiếu trên giáo án điện tử thay đổi theo từng hình cho các em trả lời định nghĩa, tính chất, dấu hiệu nhận biết:
*Sơ đồ tư duy về mối quan hệ giữa các tứ giác
*Sơ đồ tư duy về hình chữ nhật:
*Sơ đồ tư duy về trường hợp đồng dạng thứ nhất:
- Tuy nhiên, sự hứng thú học phân môn hình học không chỉ được tạo ra trong tiết học mà còn phải kích thích cho học sinh trong thời gian học ở nhà. Chính vì vậy, đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy có thể phối hợp với những giáo viên dạy trong cùng phân môn ở các khối lớp tổ chức những chuyên đề tìm ra những cách giải nhanh, ngắn gọn cho một bài toán hoặc sáng tạo ra những thiết bị, mô hình ứng dụng của hình học Những tình huống phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo, giúp các em tin tưởng và yêu thích môn học.
C. Tạo hứng thú cho học sinh khi áp dụng kiến thức vào thực tiễn.
Môn Hình học là phân môn gắn liền với thực tế cuộc sống, vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên cần cho học sinh liên hệ kiến thức đã học vào thực tế, sử dụng các kiến thức hình học vào các công việc thường ngày. Điều này làm cho học sinh khỏi phải trừu tượng khi học lý thuyết và các em có thể nhớ kiến thức lâu hơn. 
Ví dụ: Khi học chương Tứ giác giáo viên hướng dẫn cho học sinh cắt thế nào để được chính xác các hình: hình thang cân thì phải gấp một lần tờ giấy cắt hai đáy song song trước rồi cắt hai cạnh hai bên bằng nhau; cắt hình thoi thì phải gấp hai lần tờ giấy rồi cắt cạnh của nó vì hình thoi có hai đường chéo là trục đối xứng và bốn cạnh bằng nhau.
- Học xong chương II “Diện tích đa giác” giáo viên tổ chức một buổi thực hành chia lớp thành 4 tổ mỗi tổ đo một khu vực của khuôn viên trường sau đó tổng hợp lại để biết được diện tích của khuôn viên trường.
D. Tạo không khí nhẹ nhàng, sôi nổi cho học sinh khi giải bài tập.
- Học sinh thường gặp rất nhiều khó khăn khi giải bài tập hình học vì nó có tính chặt chẽ, lôgic và trừu tượng nên giáo viên cần cho học sinh phân tích kỹ bài toán theo hướng đi lên hoặc đi xuống và cho các em nhắc lại kiến thức cũ có liên quan đến bài toán.
C
A
B
K
O
x
y
1
2
3
4
E
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh giải bài tập 54 trang 96 SGK tôi phân tích theo sơ đồ: 
B, C đối xứng nhau qua O
 Ý
B, O, C thẳng hàng và OB = OC
 Ý
Ô1 + Ô2 + Ô3 + Ô3 = 1800 và OB = OC = OA
 Ý
Ô2 + Ô2 = 900, rOAB cân, rOAC cân.
- Khi giải bài tập giáo viên cho học sinh hoạt động theo nhóm từ 4 đến 6 người, tuỳ yêu cầu của bài toán, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc chủ định, được giao cùng một nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần, trong nhóm phân công mỗi người một việc, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, giúp đỡ nhau giải quyết vấn đề trong không khí thi đua với các nhóm khác. Nhóm cử ra một người đại diện trình bày trước lớp.
Ví dụ: Trong giờ luyện tập cuối chương “Tứ giác” giáo viên đưa ra bài tập 89, trang 111 SGK. Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm theo 4 trình độ yếu kém, trung bình, khá, giỏi. Phân công nhiệm vụ nhóm yếu kém làm câu a), nhóm trung bình làm câu b), nhóm khá làm câu c), nhóm giỏi làm câu d). Sau đó giáo viên gọi bất kỳ một đại diện nào của nhóm báo cáo kết quả.
- Đối với phân môn hình học việc chọn lọc và phân loại bài tập là rất quan trọng, vì vậy giáo viên có thể chia bài tập ra làm nhiều dạng: bài tập cơ bản áp dụng ngay công thức, định nghĩa, định lý vừa học giúp học sinh có niềm tin và khắc sâu kiến thức; dạng bài tập thực tế cho thấy tính thực tiễn của toán học; dạng bài tập suy luận tổng hợp đòi hỏi học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ, hứng thú khám phá nhằm củng cố lại kiến thức của phần học hay chương đó.
- Khi làm được điều này nó thuận lợi rất nhiều khi giao và hướng dẫn bài tậo về nhà cho các em, từ đó các em có thể làm những bài tập tương tự.
E. Tạo động lực, hứng thú cho học sinh khi vẽ hình. 
- Học phân môn Hình học thì một yếu tố rất quan trọng là học sinh phải biết vẽ hình. Thế nhưng vẽ ra sao? Yếu tố nào trước? Yếu tố nào sau? Ký hiệu như thế nào? Khi vẽ thì cần dụng cụ gì?... Điều này học sinh cần có một quá trình rèn luyện lâu dài dưới sự chỉ dẫn của giáo viên ngay từ khi các em làm quen kiến thức mới.
- Khi vẽ hình cần xác định cho học sinh vừa đọc vừa vẽ, cần bổ sung các yếu tố phụ và biết biểu diễn các ngôn ngữ sang ký hiệu hình học.
- Để thực hiện những điều đó giáo viên phải lựa chọn cách vẽ để hướng dẫn học sinh vẽ hình. Cụ thể:
+ Rèn cho học sinh có thói quen ký hiệu trên hình vẽ các trường hợp: Điểm, các đoạn thẳng bằng nhau, các góc bằng nhau, các trường hợp vuông góc, bổ sung các yếu tố phụ trên hình
+ Hướng dẫn học sinh cách sử dụng các dụng cụ:
Êke: Vẽ góc vuông, hai đường thẳng song song
Compa: Vẽ đường tròn, hình tròn, hai đoạn thẳng bằng nhau, 
Thước thẳng: Vẽ đường thẳng
- Một yếu tố gây nhiều hứng thú nhất khi học hình học đó là sử dụng phấn màu khi trình bày hình vẽ trên bảng giáo viên nên sử dụng phấn màu hợp lý ở các điểm đặc biệt, đường đặc biệt giúp học sinh dễ phát hiện kiến thức từ hình vẽ.
- Ở một số tiết giáo viên nên sử dụng phần mềm PowerPoint trình chiếu các bước vẽ hình cho học sinh quan sát.
Ví dụ: Vẽ hình thoi là tứ giác có bốn cạnh bằng nhau. Do vậy khi tôi yêu cầu nêu cách vẽ hình thoi thì học sinh đã phát hiện có thể dùng compa để vẽ bốn cung tròn có bán kính bằng nhau, giao điểm của bốn cung tròn đó chính là bốn đỉnh của hình thoi. Tôi đã chuẩn bị các bước dựng hình thoi và đặt toàn bộ phần dựng hình ở chế độ tự động (Automatic) cứ 1 giây thì hiện 1 đối tượng:
A
C
B
D
R
- Lấy hai điểm A, C bất kỳ
- Vẽ cung tròn tâm A bán kính R và cung tròn tâm C có cùng bán kính.
- Hai cung tròn trên cắt nhau tại hai điểm B và D.
- Kẻ các đoạn thẳng AB, BC, CD, DA ta được hình thoi ABCD.
Học sinh vừa quan sát vừa lắng nghe giáo viên giới thiệu lần lượt từng bước dựng hình thoi, từ đó có thể vẽ lại dựa vào vở của mình không mấy khó khăn.
Tóm lại, các bài tập đều yêu cầu học sinh vẽ hình, nên khi vẽ các em phải đọc kỹ bài, đọc đến đâu vẽ đến đó, vẽ rõ ràng và dùng đúng dụng cụ vẽ, từ đó học sinh trả lời yêu cầu đề bài. Đặc biệt phải hình thành cho học sinh thói quen phân tích kỹ đề bài, định hướng vẽ và dự đoán các trường hợp xảy ra, không nên vẽ hình đặc biệt, điểm đặc biệt.
Chẳng hạn:
 + Cho tam giác ABC thì vẽ không nên vẽ cân, vuông hay đều.
 + Cho M là điểm nằm giữa AB thì không nên lấy tại trung điểm của AB.
V. Hiệu quả đạt được:
Trong quá trình giảng dạy năm học vừa qua khi áp dụng kinh nghiệm của mình để soạn giảng và vận dụng vào thực tế thì tôi thấy có sự thay đổi:
- Học sinh đã có những thái độ học tập tích cực, thích thú hơn trong tiết học, chủ động nêu lên những thắc mắc, khó khăn về bộ môn với giáo viên, các em hưởng ứng rất nhiệt tình. Bên cạnh đó những bài tập giao về nhà đã được các em làm một cách nghiêm túc, tự giác học bài và nắm được các kiến thức cơ bản sau khi học xong mỗi bài.
- Phần lớn chất lượng các bài kiểm tra đã được nâng lên, các em đều vẽ hình đúng, xác định hướng đi bài toán, số học sinh minh chứng lôgic và chặt chẽ được tăng.
- Từ những bài học đa số các em đều vận dụng vào thực tiễn từ những kiến thức đã học: Đo đạc, cắt hình, xác định tính đối xứng của vật thể, 
Cuối năm học điều tra mức độ hứng thú học môn Hình học lớp 8ª1 kết quả là
TSHT
Số HS có hứng thú
Số HS không có hứng thú
SL
%
SL
%
30
20
66,7%
10
33,3%
So với đầu học kỳ I số học sinh hứng thú học phân môn Hình học tăng 60,0%.
Kết quả khảo sát cuối năm học chất lượng phân môn Hình học chưa thật sự như mong muốn tuy nhiên các em đã biết cách để làm một bài toán chứng minh hình học. Cụ thể qua bài kiểm tra học kỳ II cuối năm kết quả đạt được như sau (phần hình học)
TSHS
Khá giỏi
TB
Yếu kém
SL
%
SL
%
SL
%
30
15
50%
12
40%
3
10 %
Kết quả bài kiểm tra học kì II môn toán đạt như sau
Tổng số HS
Giỏi
Khá
TB
Yế

File đính kèm:

  • docSKKN_2015_2016.doc