Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh khám phá Bản sắc vùng cao trong bài thơ Nói với con của nhà thơ Y Phương

Với những gì như tôi đã trình bày trên cho thấy “Nói với con”thực sự có một vẻ đẹp hết sức phong phú và độc đáo, đó là vẻ đẹp của bản sắc vùng cao được thể hiện cả trên bề mặt hình thức cũng như cả trong chiều sâu tư tưởng, tình cảm, cảm xúc. Trong thực tế, khi thực hiện tiết dạy này tôi thấy vẫn còn bộc lộ một số hạn chế đáng tiếc, đó là giáo viên chưa mấy quan tâm đến những yếu tố thể hiện rõ phong cách cá nhân của tác giả Y Phương cũng như những nét rất riêng chỉ có thể có được ở một áng thơ ca miền núi.

* Trước hết xin nói về những mặt thuận lợi khi thực hiện tiết dạy:

- Ngay sau khi xuất hiện trong chương trình SGK Ngữ văn 9, đã có rất nhiều nguồn tài liệu viết về bài thơ này. Đặc biệt là các nguồn tài liệu chính thống dùng trong nhà trường của NXBGD như: Sách giáo viên, Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9, Chuẩn Kiến thức – Kĩ năng đã hướng dẫn khá tỉ mỉ về dung lượng kiến thức cũng như về phương pháp tìm hiểu: kiến thức được định vị khá cụ thể với một hướng khai thác khá rõ ràng, hợp lí, dễ thực hiện. Bên cạnh đó cuốn sách giành cho học sinh như Bình giảng Văn 9 của tác giả Vũ Dương Qũy và Lê Bảo đã viết khá hay và công phu, giúp học sinh và giáo viên có được một nguồn tham khảo rất đáng quí,một sự hỗ trợ rất cần thiết trong giảng dạy.

- Văn bản này cũng đã vài lần nằm trong phạm vi chương trình của kì thi giáo viên giỏi tỉnh. Hơn nữa một số trường cũng đã chọn bài này làm tiết thực tập liên hoàn bài dạy khó để đúc rút kinh nghiệm.

Bên cạnh đó, trên các báo, tạp chí cũng đã có khá nhiều bài viết của nhiều tác giả là nhà phê bình văn học, của các giáo viên trực tiếp đứng lớp, đó cũng là một thuận lợi lớn cho chúng tôi, nhất là khi mà tác phẩm được đưa vào chương trình còn tương đối mới mẻ.

* Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy tôi vẫn thấy còn có không ít những khó khăn và những hạn chế nhất định, bộc lộ cả trong tài liệu hướng dẫn và trong thực tế dạy học của giáo viên.

- Trong quá trình ngiên cứu tài liệu cũng như khi dự giờ của các đồng nghiệp, tôi luôn thấy một điều rằng: Họ chưa làm cho tác phẩm được sống thực sự trong chính môi trường đã sinh ra nó, bài thơ chưa thực sự có được hơi thở, sự sống của con người, mảnh đất vùng cao, một vùng đất với Gió thổi ầm ầm/ Dội ào ào- vùng đất của những con người Tự đục đá kê cao quê hương, những con người với những suy nghĩ rằng: Mặt trời mặt trăng ư?/ Từ chúng ta ngước lên mà có (Trò chuyện với các vị thần). Cái vẻ đẹp ấy được hiển hiện trong từng câu chữ, trong từng giai điệu, trong từng cảm xúc nhưng chưa được giáo viên khai thác một cách đúng mực. Họ cũng đã nói tới bản sắc vùng cao, cũng nói tới vẻ đẹp tâm hồn của con người miền núi nhưng như một sự gán ghép có vẻ khô cứng.

Tài liệu cũng như các tiết dạy, kể cả một số tiết dạy ở hội thi GVG tỉnh năm học 2008 - 2009 mà tôi được dự cũng chỉ dừng lại ở việc đánh giá cuối bài hoặc sau mỗi phần của bài thơ rằng: Bài thơ đã thể hiện rõ cách nói, cách nghĩ của con người miền núi mà đáng ra họ phải làm rõ điều này được thể hiện như thế nào trong suốt cả quá trình khai thác bài thơ.

 

doc29 trang | Chia sẻ: Bình Đặng | Ngày: 08/03/2024 | Lượt xem: 40 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh khám phá Bản sắc vùng cao trong bài thơ Nói với con của nhà thơ Y Phương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i chí lớn 
 Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn 
 Sống trên đá không chê đá gập ghềnh 
 Sống trong thung không chê thung nghèo đói 
 Sống như sông như suối 
 Lên thác xuống ghềnh 
 Không lo cực nhọc.
Giọng thơ không còn cái vẻ nhẹ nhàng tươi vui như trước. Bên cạnh sự xuất hiện của những đá, thung, ghềnh, thác, âm điệu câu thơ bỗng trở nên nhọc nhằn mà cũng đầy gắng gỏi. Ta cảm nhận được trong đó bao nhiêu khó khăn chồng chất, bao nhiêu gian khó cực nhọc. Những câu thơ với nhiều âm tiết khép, nhiều thanh trắc,những câu ghép không có chủ ngữ, cũng không cần đến quan hệ từ, càng làm cho giọng điệu thơ trở nên chắc, gọn, rắn rỏi, mạnh mẽ, khỏe khoắn, như nắng, như gió, như sức vóc, như tâm hồn người vùng cao. Đoạn thơ dồi dào nhạc điệu, được tạo nên bởi điệp từ điệp ngữ, điệp cấu trúc câu, nhịp thơ khi vươn dài gắng gỏi, khoáng đạt, khi rút ngắn chắc nịch, mạnh mẽ. Điệp từ “Sống”được đặt đầu mỗi câu thơ góp phần làm nên giọng điệu rắn rỏi, như muốn thể hiện cái tư thế kiêu hãnh của con người quê hương trước những khó khăn thử thách. Đó là nguồn tiếp sức cho con, cho con một tư thế, một niềm tin, lẽ sống.
Rắn rỏi, mạnh mẽ, chắc nịch, khỏe khoắn nhưng âm hưởng chung của bài thơ không hề thô cứng. Sự góp mặt của nhiều yếu tố tình thái trong bài thơ như “yêu lắm con ơi; thương lắm con ơi; nghe con..”cùng với sự lặp lại của cụm từ “Người đồng mình”như một điệp khúc, như một nốt nhấn đã làm cho âm điệu thơ trở nên mềm mại, tha thiết, ngọt ngào hơn. Những đặc sắc về nghệ thuật ấy cộng hưởng với những cung bậc cảm xúc khi sâu lắng, lúc sôi nổi của nhà thơ đã làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của tác phẩm.
“Nói với con”là một bài thơ đậm đà bản sắc vùng cao và mang đậm dấu ấn phong cách Y Phương, một hồn thơ chân thật, mạnh mẽ, trong sáng với cách tư duy giàu hình ảnh, những suy tư giàu tính trải nghiệm về lẽ sống, về đạo lí làm người, về sự gắn bó chung thủy với quê hương làng bản.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
Với những gì như tôi đã trình bày trên cho thấy “Nói với con”thực sự có một vẻ đẹp hết sức phong phú và độc đáo, đó là vẻ đẹp của bản sắc vùng cao được thể hiện cả trên bề mặt hình thức cũng như cả trong chiều sâu tư tưởng, tình cảm, cảm xúc. Trong thực tế, khi thực hiện tiết dạy này tôi thấy vẫn còn bộc lộ một số hạn chế đáng tiếc, đó là giáo viên chưa mấy quan tâm đến những yếu tố thể hiện rõ phong cách cá nhân của tác giả Y Phương cũng như những nét rất riêng chỉ có thể có được ở một áng thơ ca miền núi.
* Trước hết xin nói về những mặt thuận lợi khi thực hiện tiết dạy:
- Ngay sau khi xuất hiện trong chương trình SGK Ngữ văn 9, đã có rất nhiều nguồn tài liệu viết về bài thơ này. Đặc biệt là các nguồn tài liệu chính thống dùng trong nhà trường của NXBGD như: Sách giáo viên, Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9, Chuẩn Kiến thức – Kĩ năng đã hướng dẫn khá tỉ mỉ về dung lượng kiến thức cũng như về phương pháp tìm hiểu: kiến thức được định vị khá cụ thể với một hướng khai thác khá rõ ràng, hợp lí, dễ thực hiện. Bên cạnh đó cuốn sách giành cho học sinh như Bình giảng Văn 9 của tác giả Vũ Dương Qũy và Lê Bảo đã viết khá hay và công phu, giúp học sinh và giáo viên có được một nguồn tham khảo rất đáng quí,một sự hỗ trợ rất cần thiết trong giảng dạy.
- Văn bản này cũng đã vài lần nằm trong phạm vi chương trình của kì thi giáo viên giỏi tỉnh. Hơn nữa một số trường cũng đã chọn bài này làm tiết thực tập liên hoàn bài dạy khó để đúc rút kinh nghiệm.
Bên cạnh đó, trên các báo, tạp chí cũng đã có khá nhiều bài viết của nhiều tác giả là nhà phê bình văn học, của các giáo viên trực tiếp đứng lớp, đó cũng là một thuận lợi lớn cho chúng tôi, nhất là khi mà tác phẩm được đưa vào chương trình còn tương đối mới mẻ.
* Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy tôi vẫn thấy còn có không ít những khó khăn và những hạn chế nhất định, bộc lộ cả trong tài liệu hướng dẫn và trong thực tế dạy học của giáo viên.
- Trong quá trình ngiên cứu tài liệu cũng như khi dự giờ của các đồng nghiệp, tôi luôn thấy một điều rằng: Họ chưa làm cho tác phẩm được sống thực sự trong chính môi trường đã sinh ra nó, bài thơ chưa thực sự có được hơi thở, sự sống của con người, mảnh đất vùng cao, một vùng đất với Gió thổi ầm ầm/ Dội ào ào- vùng đất của những con người Tự đục đá kê cao quê hương, những con người với những suy nghĩ rằng: Mặt trời mặt trăng ư?/ Từ chúng ta ngước lên mà có (Trò chuyện với các vị thần). Cái vẻ đẹp ấy được hiển hiện trong từng câu chữ, trong từng giai điệu, trong từng cảm xúc nhưng chưa được giáo viên khai thác một cách đúng mực. Họ cũng đã nói tới bản sắc vùng cao, cũng nói tới vẻ đẹp tâm hồn của con người miền núi nhưng như một sự gán ghép có vẻ khô cứng.
Tài liệu cũng như các tiết dạy, kể cả một số tiết dạy ở hội thi GVG tỉnh năm học 2008 - 2009 mà tôi được dự cũng chỉ dừng lại ở việc đánh giá cuối bài hoặc sau mỗi phần của bài thơ rằng: Bài thơ đã thể hiện rõ cách nói, cách nghĩ của con người miền núi mà đáng ra họ phải làm rõ điều này được thể hiện như thế nào trong suốt cả quá trình khai thác bài thơ.
- Trở lại với sự hướng dẫn tìm hiểu của một số tài liệu:
Sách giáo viên Ngữ văn 9 đã bám theo hệ thống câu hỏi trong SGK để triển khai và giải quyết vấn đề:
Phần 1: Con lớn lên trong tình yêu thương, trong sự nâng đón của cha mẹ. Con trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên tươi đẹp và nghĩa tình của quê hương.
Tất cả đã che chở, đã nuôi dưỡng con cả về tâm hồn và lối sống.
Phần 2: Những đức tính cao đẹp của “người đồng mình”và mong ước của người cha qua lời tâm tình với con.
Cuối cùng là cho học sinh cảm nhận về tình cảm của người cha đối với con, rút ra những điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con.
Đó là một định hướng rất rõ ràng và dễ thực hiện, tuy nhiên nét hạn chế cũng bộc lộ khá rõ: Sự khai thác hầu như thiên về giá trị tư tưởng mà chưa mấy quan tâm đến sự độc đáo, bản sắc riêng của một áng thơ miền núi điển hình.
Còn sách Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9 trong khi hướng dẫn cách khai thác lại quá sa vào tiểu tiết, vụn vặt, vì vậy đã không làm sống dậy được hình tượng thơ thông qua những dấu ấn nghệ thuật đặc sắc của bài thơ.
- Về phía giáo viên, trong các tiết dạy, họ cũng đã truyền đạt khá đầy đủ những nội dung đã được định hướng trong SGV. Tuy nhiên giờ dạy vẫn thiếu đi điều mà ta vẫn thường gọi là cái “hồn”, cái “thần thái”của bài thơ, cách chuyên chở rất riêng của bài thơ thì vẫn chưa làm lột hiện lên được một cách thỏa đáng. Họ cũng đã rất cố gắng muốn chuyển tải cho học sinh thấy được cách nói riêng, khác biệt của một áng thơ ca miền núi. Nhưng đáng tiếc là giáo viên đã thực hiện điều đó như một sự gán ghép khiên cưỡng bằng cách sau khi cho học sinh tìm hiểu xong nội dung đoạn thơ thường giành một câu hỏi như: Cách nói trong đoạn thơ trên có gì đặc sắc ? Và giáo viên kết luận: Cách nói giàu hình ảnh, mang đậm dấu ấn của con người miền núi. Thiết nghĩ như vậy là mơ hồ, chung chung, thiếu tính thuyết phục.
Xin được dẫn ra đây một vài ví dụ:
Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu khổ thơ đầu, có giáo viên đã đặt câu hỏi như thế này:
Bốn câu thơ đầu có ý nghĩa như thế nào?
Những hình ảnh “chân phải” “chân trái” “một bước” “hai bước” nói lên điều gì?...
Tương tự như vậy ở phần sau giáo viên hỏi:
Em hãy lần lượt giải thích ý nghĩa của các câu thơ:
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
...
Còn quê hương thì làm phong tục.
Sau đó giáo viên khái quát ý nghĩa của đoạn thơ và ghép vào một câu hỏi:
Em thấy cách nói trong những câu thơ trên có gì đặc sắc?
Rõ ràng đó là một cách làm không mấy hiệu quả.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Định hướng chung:
Như trên tôi đã nói: “Nói với con”là một áng thơ tiêu biểu cho thơ ca miền núi. Vẻ đẹp của thi phẩm chính là cái bản sắc vùng cao được thể hiện một cách độc đáo và đậm đà. Bản sắc ấy thấm đẫm trong từng câu chữ, hình ảnh, giọng điệu, cách tư duy, bày tỏ cảm xúc. Bài thơ được học trong hai tiết, vì vậy đòi hỏi chúng ta phải có phương pháp thích hợp, khéo léo để học sinh cảm nhận được cái thần thái, linh hồn của nó mà không rơi vào tình trạng ôm đồm, cứng nhắc hay quá vụn vặt, rườm rà, làm mất đi vẻ đẹp vốn có của tác phẩm.
- Trước khi hướng dẫn HS phần Đọc - hiểu văn bản theo định hướng của SGK, GV giành một thời gian thích hợp để cung cấp một số thông tin ngoài văn bản như: Tác giả (Quê hương, đặc điểm phong cách thơ); hoàn cảnh ra đời của bài thơ. Giáo viên cần đặc biệt nhấn mạnh đến sự ảnh hưởng của yếu tố quê hương đến hồn thơ của Y Phương ; đồng thời cho học sinh nhận thấy bài thơ được viết trong một bối cảnh khá đặc biệt, khi mà " đất nước ta gặp vô vàn khó khăn" là lúc mà tác giả cảm thấy "dường như không biết lấy gì để vịn, để tin". Và theo ông "muốn sống đàng hoàng như một con người, phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực, vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa ".
- SGK Ngữ văn 9, phần Đọc – Hiểu văn bản trong câu hỏi một đã có gợi ý: Bài thơ có bố cục hai phần – gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người; gợi về sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương. Bài dạy của chúng ta men theo bố cục đó.
+ Ở phần một, từ đầu cho đến “Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”: Ngoài những điều mà sách giáo viên đã hướng dẫn thực hiện, theo tôi có hai điểm mấu chốt mà chúng ta cần làm được:
Trước hết là cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh vừa cụ thể vừa khái quát, vừa mộc mạc, gần gũi lại vừa giàu sức gợi ở bốn câu thơ đầu: “chân phải, chân trái” “một bước, hai bước” “chạm tiếng nói, tới tiếng cười” gợi lên một kí ức đẹp đẽ của con người thuở ấu thơ. Con bước những bước đi chập chững đầu tiên trong ánh mắt dõi theo, trong niềm vui đón đợi và vòng tay nâng niu của cha của mẹ. Đoạn thơ gợi lên một không gian ấm cúng, ríu rít tiếng nói cười, đầy ắp tình yêu thương, tràn ngập niềm hạnh phúc. Đó là cái nôi đầu tiên để con được lớn lên.
Tấm lòng của cha mẹ, tình yêu thương của gia đình là vậy, rất cần cho con nhưng chưa đủ. Sự lớn lên của con còn cần đến nguồn mạch tinh thần thứ hai, đó là nghĩa tình của quê hương làng bản.
Đến sáu câu thơ tiếp lại là một vẻ đẹp khác của ngôn từ và hình ảnh. Nếu ở bốn câu trên là cách nói mộc mạc ít trau chuốt, thì đây lại là cách nói rất sáng tạo, mới mẻ: “người đồng mình”cất lên một cách trìu mến để gọi những người cùng sống trên một miền đất, cùng chung quê hương, bản quán. Hình ảnh thơ đến đây cũng mang một vẻ đẹp khác lạ. Vẫn là những gì thân thuộc gần gũi với con người vùng cao: “đan lờ” “vách nhà”, là “rừng “là “con đường “nhưng lại được “cài nan hoa” “ken câu hát”. Cài, ken, vốn là những từ chỉ hoạt động rất quen thuộc mỗi ngày của họ, nhưng ở đây nó không còn mang nghĩa cụ thể nữa mà diễn tả một điều trìu tượng rất đáng yêu. Câu thơ làm hiện lên cuộc sống tươi vui, lãng mạn của người đồng mình một cách hết sức tự nhiên, chân thật. Chính cuộc sống đó của con người quê hương đã giành cho con những gì đẹp đẽ nhất, quí giá nhất: là nghĩa tình thân thương sâu nặng- là sự che chở đùm bọc, nâng niu con khôn lớn, trưởng thành.
Bằng những hình ảnh thơ đẹp, gần gũi, bằng cách nói cụ thể, độc đáo, giản dị, người cha gợi nhắc con về cội nguốn sinh dưỡng, đó là tình yêu thương chăm bẵm của cha mẹ, gia đình, là nghĩa tình, sự che chở của quê hương làng xóm, tất cả cùng nuôi dưỡng con cả về tâm hồn và lối sống.
+ Phần hai của bài thơ, người cha nói với con về những phẩm chất tốt đẹp và những truyền thống đáng tự hào của người đồng mình. Sức nặng của bài thơ tập trung ở đây. Giáo viên cần tập trung khai thác vẻ đẹp của hình ảnh, của ngôn từ, giọng điệu để từ đó giúp học sinh cùng rung cảm, cùng hát lên được với bản hành khúc mạnh mẽ, tha thiết này – hành khúc mang rõ âm hưởng của suối, của sông, của núi rừng, của ghềnh thác... của những con người cứng cỏi, khoáng đạt, gân guốc, chắc nịch đang bền bỉ xây dựng quê hương:
 Người đồng mình thương lắm con ơi
 Cao đo nỗi buồn
 Xa nuôi chí lớn
 Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
 Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
 Sống trong thung không chê thung nghèo đói
 Sống như sông như suối
 Lên thác xuống ghềnh
 Không lo cực nhọc
 Người đồng mình thô sơ da thịt
 Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
 Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
 Còn quê hương thì làm phong tục.
Vẫn tiếp tục cách nói giản dị nhưng đầy thân thương, trìu mến, người cha bộc lộ những cảm xúc chân thành, tình cảm sâu nặng với quê hương. Nếu trên kia là”người đồng mình yêu lắm con ơi ”- yêu cuộc sống lao động vui tươi bình dị, yêu xóm làng thơ mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây “người đồng mình thương lắm con ơi ”- thương cho những vất vả nhọc nhằn, thương cho những nghèo đói lam lũ của con người quê hương!
Cùng với cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh cần thấy được giọng thơ đến đây cũng có sự thay đổi. Những câu thơ khi vươn dài đầy gắng gỏi, khi rút ngắn đầy chắc gọn, cứng rắn. Bên cạnh đó là hàng loạt những hình ảnh vừa cụ thể mộc mạc, vừa khái quát mang ý nghĩa biểu trưng: Đá, thung, ghềnh, thác, sông, suốiđó là không gian quen thuộc của người đồng mình, là mái nhà, là làng xóm bao đời nay mà họ đã gắn bó. Còn nhiều lắm những khó khăn, vất vả, còn rộng dài lắm những thử thách chông gai. Nhưng trên từng chặng đường gian khó ấy, người đồng mình vẫn vững vàng cứng cỏi, vẫn đứng thẳng trong tư thế kiêu hãnh hiên ngang. Cốt cách ấy, suy nghĩ ấy vốn là điều sẵn có bao đời nay của con người Việt Nam, nhưng ở đây lại được diễn đạt bằng một cách nói rất riêng, cách nói, cách nghĩ mang đậm bản sắc người miền núi, những con người lấy cái cao, cái xa của đất trời làm thước đo kích cỡ của nỗi buồn và chí khí. Những con người “tự đục đá kê cao quê hương “bằng sức vóc lớn lao, nghị lực phi thường, những con người với tâm hồn khoáng đạt như núi cao, như sông dài, với sức sống bền bỉ dẻo dai như suối nguồn chảy mãi.
Một lần nữa quê hương lại hiện lên như một nguồn tiếp sức nhưng không phải như thời con còn thơ bé với những chăm bẵm chở che, mà giờ đây quê hương cho con một tư thế, một lẽ sống, một niềm tin, ý chí để bước đi trên đường đời dài rộng. Hãy sống ân nghĩa thủy chung, hãy trân trọng, tự hào và xứng đáng với quê hương. Đó là lời người cha muốn trao gửi cho con.
Những tình cảm lớn lao ấy được gói gọn trong một bài thơ xinh xắn, bình dị mộc mạc, chân chất và giàu hình ảnh.Bài thơ là tiếng nói độc đáo, đặc sắc với cách nói bộc trực, hình ảnh gân guốc, giọng điệu rắn rỏiĐó là bản sắc độc đáo không thể trộn lẫn của văn chương miền núi, đó cũng là sức hấp dẫn đặc biệt của bài thơ “Nói với con ”.
2. Giáo án thực hiện:
 Tiết 123+124 : NÓI VỚI CON
 (Y Phương)
 A. Mục tiêu cần đạt :
 Giúp HS:
Cảm nhận được tình cảm của cha mẹ đới với con cái, tình quê hương sâu nặng và niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của dân tộc mình.
Hiểu được vẻ đẹp đặc sắc của một áng thơ ca miền núi qua cách diễn tả độc đáo, giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm.
B. Tiến trình tổ chức các hoạt động dạy – học:
 Hoạt động 1: Ổn định tổ chức
 Hoạt động 2: Kiểm tra bài cũ.
 Hoạt động 4: Tổ chức dạy học bài mới.
Tiết 1 :
 Hoạt động của GV và HS
 Nêu hiểu biết của em về tác giả Y Phương? 
Em biết gì về hoàn cảnh sáng tác bài thơ này ?
Bài thơ viết theo thể thơ nào ?
Hãy chỉ ra mạch cảm xúc của tác giả được thể hiện trong bài ? Từ đó chia bố cục của bài thơ ?
GV hướng dẫn HS đọc và tìm hiểu một số chú thích về từ khó trước khi vào tìm hiểu bài.
-HS đọc 4 câu thơ đầu.
Bốn câu thơ đầu tác giả nói về điều gì ?
Em có nhận xét gì về cách nói của nhà thơ ở 4 câu thơ trên ?
Bằng cách nói đó tác giả gợi lên một không gian cuộc sống gia đình như thế nào ?
 Qua đó người cha muốn nói với con điều gì ?
 GV: Tấm lòng của cha mẹ, tình yêu thương của gia đình là cái nôi đầu tiên để con được lớn lên, nhưng chưa đủ. Sự lớn lên của con còn cần đến bầu sữa tinh thần thứ hai, đó là quê hương làng bản.
HS đọc sáu câu thơ tiếp
Người đồng mình yêu lắm con ơi
.....................................................
Con đường cho những tấm lòng. 
Trong đoạn thơ trên, tác giả nói với con về điều gì ?
Em hiểu như thế nào về cụm từ: “Người đồng mình “và cách bộc lộ cảm xúc ở câu thơ này?
Cách sử dụng từ ngữ và hình ảnh trong những câu thơ trên có gì đặc sắc ?
Qua đó em cảm nhận được gì về cuộc sống và con người quê hương ?
Bằng những hình ảnh thơ đẹp,giản dị bằng cách nói cụ thể, độc đáo mà gần gũi của người miền núi, người cha muốn nói với con rằng:vòng tay yêu thương của cha mẹ, gia đình, nghĩa tình sâu nặng của quê hương làng bản- đó là cái nôi đã nuôi con khôn lớn, là cội nguồn sinh dưỡng của con. Con hãy khắc ghi điều đó.
Đoạn thơ vừa là một lời tâm tình ấm áp, vừa là một lời dặn dò đầy tin cậy của người cha trao gửi tới con. 
 Tiết 2 :
HS đọc phần 2 bài thơ.
Người đồng mình thương lắm con ơi 
......................
Không lo cực nhọc.
Phần 2 của bài thơ, người cha nói với con về điều gì ?
Câu thơ mở đầu phần 2 gần như lặp lại câu thơ trước đó nhưng có một sự thay đổi. Từ “yêu “được thay thế bằng từ “thương”. Tại sao có sự thay đổi đó?
Hãy chỉ ra sự độc đáo trong cách diễn đạt ở những câu thơ trên ?
Nêu cảm nhận của em về giọng điệu của đoạn thơ ? (Cấu trúc câu, ngữ điệu)
Từ Sống được lặp lại và đưa lên đầu mỗi câu thơ có tác dụng gì?
Suy nghĩ của em về hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”?
.
Qua đó người cha muốn gửi gắm điều gì?
GV: Một lần nữa, quê hương lại hiện lên như một nguồn tiếp sức, nhưng không phải là sự vỗ về, chăm bẵm, chở che như thời còn thơ bé. Quê hương giờ đây cho con một tư thế, một lẽ sống, một niềm tin, ý chí vững vàng như đá núi, dài rộng như suối nguồn...
Bài thơ khép lại với một lời dặn dò
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé
Nghe con
Hãy nhận xét về giọng điệu của những câu thơ trên ? Qua đó em hiểu gì về những điều người cha muốn nói ?
GV: Nếu phần một bài thơ là một khúc hát nhẹ nhàng, tươi vui với hoa ngan ngát, với những ríu rit tiếng nói cười, với bao nghĩa tình thơm thảo, thì phần hai là một bản hành khúc vừa tha thiết vừa mạnh mẽ, mang âm hưởngcủa thác ghềnh, sông suối, mang theo cả hơi thở, cả chí khí, niềm tin , sức mạnh của con người quê hương. Qua đó người cha muốn trao gửi cho con niềm tin yêu, khát vọng... 
Trở lại với toàn bài thơ, em hãy nêu những nét đặc sắc trong cách nói, cách bộc lộ cảm xúc của tác giả ?
GV: Đọc bài thơ có lúc ta như thấy đó là cánh võng êm ái, là sự vuốt ve đầy âu yếm, lại có lúc là đôi bàn tay chắc nịch, khỏe khoắn sẵn sàng nâng con dậy khi con vấp ngã trên đường đời.
Bài thơ cho em hiểu gì về vẻ đẹp của con người vùng cao ?
Từ đó người cha muốn gửi gắm điều gì với con ?
 GV:“Nói với con”, Y Phương không chỉ sắp xếp hành trang cho riêng đứa con yêu quí của mình, mà cũng là hành trang ông muốn trao gửi cho tất cả những ai đang bước đi trên đường đời.
 
 Yêu cầu cần đạt:
I. Vài nét về tác giả, tác phẩm:
 1. Tác giả: 
Ngoài những thông tin SGK đã nêu, GV nhấn mạnh thêm:
-Y Phương là một đại diện tiêu bểu của thơ ca các dân tộc thiểu số. Ông ghi dấu tên mình vào đời sống văn học Việt Nam từ bài thơ “Tiếng hát tháng giêng”và sau đó tiếp tục công bố hàng loạt tập thơ có giá trị khác.
- Mảnh đất Cao Bằng đầy nắng gió và giàu truyền thống đã có ảnh hưởng không nhỏ tới hồn thơ Y Phương.
-Thơ ông thể hiện một tâm hồn chân thật, mạnh mẽ, trong sáng và cách tư duy của người miền núi. Ông được đánh giá là người “làm rạng danh cho nền thơ Tày và đã góp một giọng điệu lạ cho thơ ca Việt Nam thế kỉ XX ”.
 2. Bài thơ Nói với con:
 - Hoàn cảnh ra đời: (1980) 
GV trích dẫn lời tâm sự của nhà thơ về hoàn cảnh sáng tác bài thơ như đã dẫn ở trang 2 của bản SKKN này.
Thể thơ: Tự do.
Bố cục: 2 phần
 Phần 1: Từ đầu đến “Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”: Người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng 
 Phần 2: Phần còn lại: Nói với con về truyền thống và những phẩm chất tốt đẹp của con người quê hương.
II. Tìm hiểu bài thơ: (Theo bố cục)
 1. Người cha nói về cội nguồn sinh dưỡng của con:
 * Tình yêu thương của cha mẹ:
-> Cách nói mộc mạc, mới lạ, hình ảnh cụ thể, giản dị: chân phải, chân trái, một bước, hai bước...
 -> Gợi lên một không khí gia đình ấm cúng với hình ảnh một em bé chập chững bước đi trong vòng tay chờ đón của cha mẹ. 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_kham_pha_ban_sac_vung_ca.doc