Tài liệu ôn thi vào 10 môn Ngữ văn

Câu 9: (Đề thi vào THPT năm học 2005 – 2006)

1) Bài “cành phong lan bể” có câu: “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” cũng có câu thơ giàu hình ảnh tương tự. Hãy chép chính xác khổ thơ có câu thơ đó và nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ?

Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé

Đêm thở sao lùa nước Hạ Long

2) Con cá song và ngọn đuốc là hai sự vật khác nhau trong tưởng tượng nhưng Huy Cận lại có sự liên tưởng hợp lí. Tại sao vậy? Câu thơ của ông giúp người đọc hiểu thêm gì về thiên nhiên và tài quan sát của ông?

Gợi ý: Nhà thơ có sự liên tưởng hợp lí vì: Cá song đêm xuống thường nổi lên mặt biển hàng đàn cho đến lúc rạng đông, cá song thường có màu sắc rất sặc sỡ. Trên nền da sẫm có nhiều đốm vằn đỏ hồng như lửa, như những ngọn đuốc đỏ rực sáng lên giữa đêm trăng sao.

- Câu thơ giúp người đọc hiểu thêm về vẻ đẹp của các loài cá, vẻ đẹp của thiên nhiên biển khơi, đó là một vẻ đẹp hư ảo, lạ kì. Trí tưởng tượng của nhà thơ quả là kì diệu, bút pháp lãng mạn của nhà thơ quả là bay bổng, điều đó đã chắp cánh cho hiện thực trở nên kì ảo, làm giầu thêm cái đẹp vốn có trong tự nhiên.

 

doc106 trang | Chia sẻ: xuannguyen98 | Lượt xem: 6373 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tài liệu ôn thi vào 10 môn Ngữ văn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 bổng của con người muốn chinh phục thiên nhiên bằng công việc lao động của mình. Đây cũng là bài ca ca ngợi vẻ đẹp lộng lẫy, hùng vĩ và nên thơ của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn và tâm trạng hứng khởi của nhà thơ. Bài thơ vừa cổ kính vừa mới mẻ trong hình ảnh, ngôn ngữ. Âm điệu tạo nên âm hưởng vừa khỏe khoắn sôi nổi lại phơi phới bay bổng. Điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ để cho đến bây giờ đọc lại ta vẫn thấy hay trong khi một số bài thơ khác cùng viết về đề tài này đã rơi vào quên lãng.
B. Câu hỏi luyện tập.
Câu 1: Viết một đoạn văn phân tích khổ đầu hoặc khổ thơ cuối bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. (Tham khảo bài tập làm văn trên)
Câu 2: Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động. Em hãy chọn và phân tích một số hình ảnh đặc sắc trong các khổ thơ 1,3,4, 7. Bút pháp xây dựng hình ảnh của tác giả trong bài thơ có đặc điểm gì nổi bật? 
Gợi ý: 
Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động được vẽ bằng bút pháp vừa tả thực, vừa ẩn dụ, tượng trưng với cảm hứng lãng mạn.
- Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi mặt trời lặn (khổ 1- cảnh biển về đêm) 
+ Cảnh vừa rộng lớn lại vừa gần gũi với con người do một liên tưởng so sánh thú vị của nhà thơ: 
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
Chi tiết “mặt trời xuống biển” có thể gây ra sự thắc mắc của người đọc, vì bài thơ tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ở vùng biển miền Bắc, mà ở bờ biển nước ta, trừ vùng tây nam thường chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Thực ra, hình ảnh mặt trời xuống biển là được nhìn từ trên con thuyền đang ra biển hoặc từ một hòn đảo vào lúc hoàng hôn, nhìn về phía tây qua một khoảng biển thì vẫn có thể thấy như mặt trời xuống biển. Từ những quan sát thực, sức tưởng tượng và liên tưởng của nhà thơ đã bồi đắp và tạo nên một hệ thống hình ảnh vừa gần gũi vừa mới mẻ: vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng là then cửa... như mọi ngôi nhà thân thuộc của mỗi người.
+ Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khoẻ, lạ mà thật từ sự gắn kết ba sự vật và hiện tượng: cánh buồm, gió khơi và câu hát của người đánh cá “câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn của người lao động như đã có một sức mạnh vật chất để cùng với ngọn gió làm căng buồm cho con thuyền lướt nhanh ra khơi, bắt đầu công việc đánh cá không ít khó khăn vất vả. Đó là khí thế hăm hở và đầy hào hứng của những con người yêu nghề, yêu biển.
- Trong phần thứ hai của bài thơ nổi bật là những bức tranh đẹp, rộng lớn, lộng lẫy, kế tiếp nhau về thiên nhiên vùng biển và tư thế của con người lao động trước thiên nhiên, vũ trụ. .
+ Cảm hứng lãng mạn khiến nhà thơ phát hiện những vẻ đẹp của cảnh đánh cá giữa biển đêm, trong niềm vui phơi phới, khoẻ khoắn của người lao động làm chủ công việc của mình. 
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
+ H/a con thuyền được miêu tả rất lãng mạn. Có thực đấy nhưng lại lẫn vào trong ảo. Với sự tưởng tượng bay bổng, thuyền có người cầm lái là gió trời, cánh buồm là trăng trời. Thuyền và người hoà nhập vào thiên nhiên, lâng lâng trong cái thơ mộng của gió, trăng, trời, biển. Hình ảnh con người hiện lên là hình ảnh con người lớn ngang tầm vũ trụ và chan hoà với khung cảnh trời nước bao la tuyệt đẹp. Công việc đánh cá do đó bỗng nhiên trở nên rất thơ mộng. 
+ Nhưng đây không phải là cuộc du ngoạn bằng thuyền. Đây là một cuộc chiến đấu thực sự để giành lấy từ bàn tay thiên nhiên những của cải, tài nguyên bằng tất cả sức lực, trí tuệ của con người: “Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
- Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
- Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
- Cứ như thế, bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng của nhà thơ như dẫn ta đi lạc lối vào một cõi huyền ảo của biển trời. Đó là h/a đẹp lộng lẫy của các loài cá trên biển.
- Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
- Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
- Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
- Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
+ Những đoàn cá thu dày đặc lướt đi trong biển. Những đàn cá lướt trong sóng nước tạo nên những luồng sáng trắng loang loáng như dệt biển. Cá vào lưới dày đặc mà tưởng như cá dệt lưới vậy. 
+ Cá song đêm xuống thường nổi lên mặt biển hàng đàn cho đến lúc rạng đông. Cá song thường có màu sắc rất sặc sỡ. Trên nền da sẫm có nhiều đốm vằn đỏ hồng như lửa, như những ngọn đuốc đỏ rực sáng lên giữa đêm trăng sao, vẻ đẹp hư ảo, lạ kì.
+ Tôn lên vẻ đẹp rực rỡ, kì diệu của biển cả là sắc màu của những đuôi cá, vây cá, mắt cá với những màu sắc rực rỡ. Trong đêm sao lung linh, những con cá tươi rói quăng mạnh những chiếc đuôi vẫy nước làm ánh trăng lấp lánh “vàng choé” sáng lên giữa biển đêm. Rồi cái nhịp thở của vũ trụ về đêm: nhịp thuỷ triều lên xuống và những con sóng dập dờn, bầu trời đêm chi chít sao chiếu xuống mặt biển, nhà thơ cảm nhận như là “sao lùa nước Hạ Long”. 
+ Khi những mẻ lưới nặng trĩu được những bắp tay cuồn cuộn săn chắc kéo lên khỏi mặt nước. Những con cá nhảy nhót trong lưới, vảy, đuôi phản chiếu ánh sáng những sắc màu rực rỡ cùng với ánh hồng rực rỡ, tinh khiết của bình minh khiến cho bức tranh có những gam màu tươi sáng, lộng lẫy đến kì lạ: “vảy bạc..... nắng hồng”
=> Những hình ảnh này có vẻ đẹp của tranh sơn màu lung lính, huyền ảo, được sáng tạo bằng liên tưởng, tưởng tượng bay bổng từ sự quan sát hiện thực. Trí tưởng tượng của nhà thơ quả là kì diệu, bút pháp lãng mạn của nhà thơ quả là bay bổng , điều đó đã chắp cánh cho hiện thực trở nên kì ảo, làm giàu thêm cái đẹp vốn có trong tự nhiên.
Câu 3: Viết đoạn văn: Khổ 2,3,4 của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã miêu tả cảnh biển đẹp, biển giàu (tương tự câu trên)
Tham khảo đoạn văn:
Cả bài thơ là một khúc ca, nhưng đó không chỉ là khúc ca lao động mà còn là tiếng hát ngợi ca thiên nhiên, ngợi ca biển cả giàu đẹp của quê hương. Thật vậy, thiên nhiên trong bài thơ đẹp như một bức tranh sơn mài lóng lánh một sắc màu rực rỡ, cảnh biển trời được giới thiệu một cách tài tình, sống động: 
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
Một mặt trời đỏ ối đang từ từ chìm xuống biển khơi ở mút tận chân trời. Ngôi nhà vũ trụ đã vào đêm với “sóng cài then”, “đêm sập cửa”. Nghệ thuật nhân hoá và so sánh được sử dụng thật tài tình. Đọc hai câu thơ, ta cứ tưởng là vũ trụ đã vào thời khắc nghỉ ngơi. Không đâu, vũ trụ hay thiên nhiên vẫn đang chuyển động không ngừng. Cảnh lúc này lại gắn liền với người: “Thuyền” càng lướt ra xa thì biển càng mênh mông: 
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng.
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
Mây cao - biển bằng bàng bạc ánh trăng. Cánh buồm no gió, cong cong như vầng trăng khuyết - một nửa vầng trăng, hình ảnh thực đẹp mà lãng mạn, nên thơ. Hình ảnh “mây cao, biển bằng” mở ra một không gian vũ trụ rộng lớn, khoáng đạt, bát ngát. Hình ảnh con thuyền hay con người trong không gian ấy càng lớn lao, kì vĩ. “lướt”nhanh, nhẹ, cảm tưởng như đang bay trên không trung. Tư thế, tầm vóc ấy trong cảm xúc bay bổng, thăng hoa của Huy Cận, hay là trong niềm vui, trong sự hào hứng của người người dân chài khi ra khơi. Cứ như thế, bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng của nhà thơ như dẫn ta đi lạc lối vào một cõi huyền ảo của biển trời. Đó là hình ảnh đẹp lộng lẫy của các loài cá trên biển.	
 - Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
- Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
- Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
- Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Tôn lên vẻ đẹp rực rỡ, kì diệu của biển cả là sắc màu của những đuôi cá, vây cá, mắt cá với những màu sắc rực rỡ của những nàng tiên cá như trong những câu chuyện cổ tích vừa thực, vừa ảo. Những con cá nhảy nhót trong lưới, vảy, đuôi phản chiếu ánh sáng những sắc màu rực rỡ cùng với ánh hồng rực rỡ, tinh khiết của bình minh khiến cho bức tranh có những gam màu tươi sáng, lộng lẫy đến kì lạ. Vẻ đẹp của biển khơi càng tráng lệ, càng huyền ảo.Không gian huyền thoại; bầu trời, biển đêm, sao, trăng, những nàng tiên cá tất cả gợi nên vẻ đẹp kì ảo, đúng là vẻ đẹp trong cảm nhận của một tâm hồn thi sĩ giàu xúc cảm. 
Câu 4: Viết đoạn văn ngắn khoảng 10 câu nêu cảm nghĩ của em về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
Gợi ý: 
Thiên nhiên vùng biển trong bài thơ có một vẻ đẹp riêng. Bầu trời giống như ngôi nhà vũ trụ khi đêm xuống cũng cài then, sập cửa để chuẩn bị nghỉ ngơi. Có trăng, có gió, biển lặng, những bầy cá dệt biển như muôn luồng sáng. Mặt trời lên làm cho biển thêm màu sắc mới. Những thuyền đầy ắp cá nối nhau thành muôn dặm khơi mắt cá huy hoàng. Con người làm chủ nên vui vẻ ca hát suốt từ khi ra khơi, trong quá trình buông lưới và trở về. Con người hoà hợp với thiên nhiên. Gió lái thuyền, trăng như dát vàng trên những cánh buồm. Người đánh cá thì hát bài ca gọi cá vào Không khí lao động thật khoẻ khoắn. Từng chùm cá nặng được kéo lên trong tiếng hát của những con người chạy đua cùng mặt trời. Vẻ đẹp của thành quả lao động cũng chính là vẻ đẹp của những người lao động mới, làm ăn tập thể, làm chủ thiên nhiên, làm chủ đời mình.
Câu 5. Trong câu thơ “vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông”, từ “đông” có nghĩa là gì? Hãy tìm ít nhất 2 nghĩa của từ “đông” và cho ví dụ. Câu thơ đã sử dụng biện pháp tu từ gì? Phân tích? Tìm hai ví dụ cũng sử dụng biện pháp tu từ đó mà em đã được học.
Gợi ý: 
Từ “đông” có nghĩa là phía đông, biển đông.
Hai nghĩa khác nhau của từ “đông”
+ Là động từ chỉ trạng thái: đông đúc, nhiều
+ Là động từ chỉ trạng thái: đông cứng
+ Là từ chỉ phương hướng: hướng đông, phía đông
VD: Đằng đông, từng đoàn thuyền đánh cá nối đuôi nhau về bờ.
Câu thơ đã sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ: chỉ số lượng cá thu được nhiều đến mức làm đầy ắp, trắng xoá mạn thuyền khi ánh nắng chiếu vào thân cá => thành quả lao động. Cảm giác ánh sáng một ngày mới từ đoàn thuyền cá đó thể hiện ánh sáng sự bội thu “Mùa vàng”.
Ví dụ về hai câu thơ sử dụng phép tu từ ẩn dụ.
VD: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
 Mặt trời chân lí chói qua tim
VD2: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Câu 6: Cho câu chủ đề sau: 
Đoàn thuyền đánh cá không chỉ là một bức tranh sơn mài lộng lẫy về vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là một bài ca ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động.
Đề tài của đoạn văn chứa câu mở đoạn là gì? Đề tài của đoạn văn trên đoạn văn chứa câu mở đoạn là gì? 
Hãy viết tiếp từ 9 đến 15 câu để tạo thành đoạn văn tổng phân hợp hoàn chỉnh. Trong đó có sử dụng phép thế đồng nghĩa.
Gợi ý: 
Đề tài của đoạn văn chứa câu mở đoạn là: ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động.
Đề tài của đoạn văn trên đoạn văn chứa câu mở đoạn là: Đoàn thuyền đánh cá là một bức tranh sơn mài lộng lẫy về vẻ đẹp của thiên nhiên.
Viết đoạn: 
- Tư thế ra đi: hoàn cảnh khắc nghiệt>< tư thế hiên ngang, họ mang đến cho biển khơi một nhịp điệu mới: tiếng hát say mê lao động.
- Tư thế lao động trên biển cả bao la: lao động trên biển không hề cô đơn, tầm vóc của họ sánh vai với đất trời, bởi thiên nhiên bầu bạn, chia sẻ với họ.(phân tích để thấy được sự hoà hợp giữa con người và vũ trụ)
- Tạo nên khúc men say ca ngợi con cho con người lao động -> tạo thành quả lao động mà họ mong muốn.
- Nhà thơ dùng hình ảnh rất thực: “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” -> Thành quả lao động: Họ ra về với thuyền đầy ắp dường như ánh bình minh thắp lên từ vảy cá. Họ mang bình minh cho vùng biển bao la rộng lớn. Bài thơ là một bản hùng ca về người lao động.
Câu 7: Hãy chỉ ra và phân tích giá trị nghệ thuật trong câu thơ sau: 
Cá nhụ cá chim cùng cá đé.
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Hãy tìm một ví dụ cũng có sử dụng biện pháp tu từ nghệ thuật giống như câu thơ trên (trong chương trình đã học)
Gợi ý: 
- Hai câu thơ trên đã sử dụng biện pháp tu từ liệt kê, ẩn dụ. Hình ảnh những con cá chim, cá đé, cá song là ẩn dụ cho thành quả lao động mà những người dân chài có được sau một ngày lao động trên biển. Hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng” là một hình ảnh đẹp, những chiếc vẩy cá dưới ánh trăng như lấp lánh.
- Câu thơ có sử dụng phép liệt kê: VD: Một canh, hai canh lại ba canh.Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Câu 8: Phân tích giá trị các biện pháp tu từ trong câu thơ sau:
Biển cho ta cá như lòng mẹ.
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”Hãy viết 1 đoạn văn phân tích hai câu thơ trên.
Gợi ý: 
Thiên nhiên, biển khơi hùng vĩ luôn là một đề tài lớn trong thơ ca Việt Nam. Biển đối với mọi người, ngoài vẻ đẹp và sự hùng vĩ, còn gợi cho chúng ta một cái gì đó bí ẩn, nguy hiểm với những tai hoạ khôn lường. Nhưng trong con mắt và tình cảm của những người dân chài: “biển như lòng mẹ”, biển cả đối với ngư dân trở nên thật ấm áp, như người mẹ hiền trở che, nuôi nấng họ lớn lên, bao bọc họ với một tình cảm trìu mến, thân thương. Mẹ biển là nguồn sống của họ, gắn bó sống còn, cho họ tất cả những gì của đời sống như người mẹ “nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Câu thơ như một sự cảm nhận thấm thía của những người dân chài đối với biển khơi. Đến một lúc nào đó học chợt nhận ra biển đã gắn bó với mình, thật quý giá thân yêu biết chừng nào.
Câu 9: (Đề thi vào THPT năm học 2005 – 2006)
1) Bài “cành phong lan bể” có câu: “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” cũng có câu thơ giàu hình ảnh tương tự. Hãy chép chính xác khổ thơ có câu thơ đó và nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ?
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
2) Con cá song và ngọn đuốc là hai sự vật khác nhau trong tưởng tượng nhưng Huy Cận lại có sự liên tưởng hợp lí. Tại sao vậy? Câu thơ của ông giúp người đọc hiểu thêm gì về thiên nhiên và tài quan sát của ông?
Gợi ý: Nhà thơ có sự liên tưởng hợp lí vì: Cá song đêm xuống thường nổi lên mặt biển hàng đàn cho đến lúc rạng đông, cá song thường có màu sắc rất sặc sỡ. Trên nền da sẫm có nhiều đốm vằn đỏ hồng như lửa, như những ngọn đuốc đỏ rực sáng lên giữa đêm trăng sao.
- Câu thơ giúp người đọc hiểu thêm về vẻ đẹp của các loài cá, vẻ đẹp của thiên nhiên biển khơi, đó là một vẻ đẹp hư ảo, lạ kì. Trí tưởng tượng của nhà thơ quả là kì diệu, bút pháp lãng mạn của nhà thơ quả là bay bổng, điều đó đã chắp cánh cho hiện thực trở nên kì ảo, làm giầu thêm cái đẹp vốn có trong tự nhiên.
3) Dưới đây là câu chủ đề cho một đoạn văn trình bầy cảm nhận về khổ thơ yêu cầu chép ở câu 1: “Chỉ với bốn câu thơ, Huy Cận đã cho chúng ta thấy một bức tranh kì thú về sự đẹp đẽ của biển cả quê hương”.
Em hãy viết tiếp khoảng 8 đến 10 câu để hoàn chỉnh đoạn văn trên theo phép lập luận diễn dịch (trong đó có một câu ghép và một câu có thành phần tình thái)
Gợi ý: 
Chỉ với bốn câu thơ, Huy Cận đã cho chúng ta thấy một bức tranh kì thú về sự đẹp đẽ của biển cả quê hương.(1) Thật vậy, tôn lên vẻ đẹp rực rỡ, kì diệu của biển cả là sắc màu của những đuôi cá, vây cá, mắt cá với những màu sắc rực rỡ của những nàng tiên cá như trong những câu chuyện cổ tích vừa thực, vừa ảo.(2) Những con cá song giống như ngọn đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh quả là hình ảnh ẩn dụ độc đáo. (3) Có lẽ, “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” lại là hình ảnh đẹp nhất.(4). Ánh trăng in xuống mặt nước, những con cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe. (5) Vẻ đẹp của biển khơi càng tráng lệ, càng huyền ảo hơn bởi hình ảnh nhân hoá : “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”. (6) Đêm được miêu tả như một sinh vật đại dương đang thở. (7). Phải chăng tiếng thở của đêm chính là tiếng rì rào của sóng? (8). Nhưng tưởng tượng của nhà thơ lại được cắt nghĩa bằng một hình ảnh bất ngờ: sao lùa nước Hạ Long làm nên tiếng thở của đêm. (9 ) Đây một hình ảnh đảo ngược, một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận khiến cho cảnh thiên nhiên thêm sinh động.(10).
Chú thích:
Câu 4: sử dụng thành phần tình thái
Câu 5: Sử dụng câu ghép.
Câu 10: Viết đoạn văn tổng phân hợp khoảng 15 câu: 
Cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ kết hợp hài hoà với cảm hứng LĐ đã tạo nên những h/a rực rỡ, bay bổng, lãng mạn trong khổ thơ thứ hai và thứ ba của bài thơ : “Đoàn thuyền đánh cá”. (Đoạn văn có sử dụng câu bị động và câu có thành phần phụ chú)
Gợi ý: 
- Từ “hát” vang lên ở ngay dòng thơ đầu và trong suốt bài thơ như mở đầu một khúc ca lao động của những người dân chài lưới. Trong câu hát hiện lên hình ảnh những đoàn cá được miêu tả như đoàn thoi giữa biển Đông lặng. Biển hiền hoà, đoàn cá phản chiếu ánh sáng khiến cho không gian rộng lớn trở nên rực sáng.
- Tiếng hát của người dân chai hay lời gọi trìu mến – câu hát của những con người gắn bó với biển khơi (liên hệ với các tác phẩm nói về mối quan hệ đối nghịch giữa biển khơi và người dân chài) Nhưng ở đây là mối quan hệ thân thương, gắn bó.
- Trong khổ thơ tiếp theo, xuất hiện các h/a thiên nhiên gợi kg khoáng đạt, bao la, không chỉ được mở ra ở chiều rộng và chiều dài, mà còn ở cả độ cao và chiều sâu.
- Cảm hứng vũ trụ là một đặc điểm trong thơ Huy Cận, giờ đây khi nhà thơ đã thực sự gắn bó với thiên nhiên, con người lao động (sáng tác năm 1958 – sau CMT8 chuyến đi thực tế) thì nó trở nên gắn bó, này nở trong niềm vui của cuộc sống lao động, không còn trĩu nặng nỗi sầu nhân thế như trước kia.
- Hình ảnh con thuyền hay con người đang điều khiển thiên nhiên. Nhà thơ đã khắc hoạ vẻ đẹp của con người lái gió – chinh phục thiên nhiên. Con buồn lướt gió với buồm trăng: con buồm no gió cong cong như vầng trăng khuyết hay ánh trăng thấm đẫm bao phủ => Dù là hình ảnh nào thì cũng đều thi vị và bay bổng.
- Con thuyền như bay trong không trung, lướt bay rất nhanh và nhẹ. Hình ảnh thiên nhiên ấn tượng, chân thực + sự thăng hoa cảm xúc đã đem lại cho bài thơ vẻ đẹp rất mĩ lệ. Biển cả, vũ trụ bao la nhưng con người không hề bé nhỏ, đơn độc giữa biển khơi, tầm vóc người ngư dân trở nên lớn lao, khoẻ khoắn.
- Những chuyến ra khơi đánh cá của họ được nhà thơ hình dung như một trận chiến đấu chinh phục biển khơi Thể thơ 7 chữ với cách ngắt nhịp phổ biến là 4/3 rắn rỏi như càng tô đậm sức mạnh của người dân chài vượt qua những thử thách, khó khăn.
- Trọng âm của câu thơ dồn ở những thanh trắc, những dấu nặng khiến âm điệu câu thơ trở nên thật hùng tráng.
 *****************************************
Bài 4: BẾP LỬA
A. Kiến thức cần nhớ.
1. Tác giả
- Bằng Việt là bút danh của Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941 tại Huế, nhưng quê gốc ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 1960 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.
- Tác phẩm chính: Hương cây - Bếp lửa (thơ in chung với Lưu Quang Vũ – 1968), Những gương mặt, những khoảng trời (1973), đất sau mưa (thơ – 1977), Khoảng cách giữa lời (thơ – 1983). Cát sáng (thơ 1986), Bếp lửa - Khoảng trời (thơ tuyển 1988)...
- Thơ Bằng Việt, cảm xúc tinh tế, có giọng điệu tâm tĩnh trầm lắng, giàu suy tư, triết luận.
2. Tác phẩm. 
a. Hoàn cảnh sáng tác : “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi BV đang là sinh viên khoa pháp lí trường Đại học tổng hợp Ki – ép (Liên xô cũ).
b.Nội dung: Qua hồi tưởng, suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương đất nước.
c. Nghệ thuật: Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
d. Bố cục : 3 phần: 
+ Phần 1: 3 dòng đầu: hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà
+ Phần 2: Từ “lên bốn tuổi” đến “niềm tin dai dẳng”: những kỉ niệm tuổi thơ và hình ảnh người bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa trong hồi tưởng của cháu.
+ Phần 3: Từ “lận đận đời bà... đến “thiêng liêng bếp 

File đính kèm:

  • docTai_lieu_on_thi_vao_lop_10_mon_Ngu_van.doc