Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học các môn khoa học ở trường Tiểu học và Trung học cơ sở

Khi tiến hành thực hiện thí nghiệm, giáo viên nêu rõ yêu cầu và

mục đích thí nghiệm hoặc yêu cầu học sinh cho biết mục đích thí

nghiệm chuẩn bị tiến hành để làm gì? Lúc này giáo viên mới phát các

dụng cụ và vật liệu thí nghiệm tương ứng với hoạt đông. Sở dĩ như

vậy là vì, nếu để các vật dụng thí nghiệm sẵn trên bàn học sinh sẽ

nghịch các đồ vật mà không chú ý đến các đồ vật trong lớp; hoặc học

sinh tự ý thực hiện thí nghiệm trước khi lệnh thực hiện của giáo viên

ban ra; hoặc học sinh sẽ dựa vào đó để đoán các thí nghiệm cần phải

làm (trường hợp này mặc dù học sinh có thể đề xuất thí nghiệm đúng

nhưng ý đồ dạy học của giáo viên không đạt).

Tiến hành thí nghiệm tương ứng với môđun kiến thức. Làm lần

lượt các thí nghiệm nếu có nhiều thí nghiệm. Mỗi thí nghiệm thực

hiện xong nên dừng lại để học sinh rút ra kết luận (tìm thấy câu trả lời

cho các vấn đề đặt ra tương ứng).

Giáo viên lưu ý học sinh ghi chép vật liệu thí nghiệm, cách bố

trí và thực hiện thí nghiệm (mô tả bằng lời hay vẽ sơ đồ), ghi chú lại

kết quả thực hiện thí nghiệm, kết luận sau thí nghiệm vào vở thí

nghiệm. Phần ghi chép này giáo viên để học sinh ghi chép tự do,

không nên gò bó và có khuôn mẫu quy định, nhất là đối với những lớp

mới làm quen với phương pháp BTNB. Đối với các thí nghiệm phức

tạp và nếu có điều kiện, giáo viên nên thiết kế một mẫu sẵn để học

sinh điền kết quả thí nghiệm, vật liệu thí nghiệm. Ví dụ như các thí

nghiệm phải ghi số liệu theo thời gian, lặp lại thí nghiệm ở các điều

kiện nhiệt độ khác nhau

pdf130 trang | Chia sẻ: hoanphung96 | Lượt xem: 726 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học các môn khoa học ở trường Tiểu học và Trung học cơ sở, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài học có làm thí nghiệm thì giáo viên cần có 
chỗ để các vật dụng dự kiến làm thí nghiệm cho học sinh. Không nên 
để sẵn các vật dụng thí nghiệm lên bàn của học sinh trước khi dạy học 
vì nhiều học sinh quá hiếu động, không chịu nghe lời dặn của giáo 
viên, có thể sẽ mất tập trung vì mải nghịch các vật dụng trên bàn. Một 
lý do nữa đó là sẽ làm lộ ý đồ dạy học của giáo viên khi giáo viên 
muốn học sinh tự đề xuất thí nghiệm nghiên cứu. Cũng với các lý do 
nói trên mà giáo viên nên thu hồi các đồ dùng dạy học không cần thiết 
(sau khi đã sử dụng xong cho mục đích dạy học và chuyển nội dung 
dạy học); 
 - Mỗi lớp học nên có một tủ đựng đồ dùng dạy học cố định 
(kính lúp, tranh ảnh, mô hình, cân, bơm tay, kéo cắt giấy). Nếu có 
điều kiện để thực hiện gợi ý này, giáo viên sẽ không phải vất vả di 
chuyển đồ dùng dạy học mỗi khi thực hiện tiết dạy. Nếu không làm 
được như gợi ý trên, giáo viên có thể để các đồ dùng dạy học ở phòng 
bộ môn hoặc phòng thiết bị. Giáo viên có thể nhờ học sinh giúp mình 
để di chuyển các đồ dùng dạy học trong trường hợp lớp đông và đồ 
dùng dạy học nhiều. Cần nhắc nhở học sinh cẩn thận khi di chuyển đồ 
dùng dạy học, chỉ nên cho học sinh mang các đồ vật nhẹ, không dễ vỡ, 
 59
hư hỏng vì độ tuổi của các em chưa đủ để điều khiển tốt các hoạt động 
hành vi của mình; 
 - Một số trường hợp có phòng học bộ môn hoặc phòng học đặc 
biệt thì nên bố trí các vật dụng theo yêu cầu trong phòng này để tiện 
lợi cho việc dạy học của giáo viên và học sinh; 
 - Chú ý sắp xếp bàn ghế không nên gập ghềnh vì gây khó khăn 
cho học sinh khi làm một số thí nghiệm cần sự cân bằng hoặc gây khó 
khăn khi viết. 
3.1.2. Không khí làm việc trong lớp học 
 Phương pháp BTNB khuyến khích học sinh xây dựng kiến thức 
thông qua làm việc chung, tiến hành thử nghiệm, chia sẻ ý tưởng, khác 
với một số phương pháp dạy học giáo viên luôn bận tâm với việc học 
sinh cần phải đưa ra câu trả lời đúng. 
 Để có một bầu không khí học tập sôi nổi trong lớp, giáo viên 
cần xây dựng không khí làm việc và mối quan hệ giữa các học sinh 
dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và đối xử công bằng, bình đẳng giữa 
các học sinh trong lớp. Tránh tuyệt đối luôn khen ngợi quá mức một 
vài học sinh nào đó hoặc để cho các học sinh khá, giỏi trong lớp luôn 
làm thay công việc của cả nhóm, trả lời tất cả các câu hỏi nêu ra mà 
không tạo cơ hội làm việc cho các học sinh khác. Giáo viên cần phải 
chú ý và bao quát lớp học, khuyến khích các học sinh có ý tưởng tốt 
nhưng rụt rè không dám trình bày. 
 Một không khí làm việc tốt trong dạy học theo phương pháp 
BTNB có hiệu quả là giáo viên tạo được sự thoải mái cho tất cả các 
học sinh, việc học không trở nên là một điều gì đó quá căng thẳng, các 
học sinh có thể tham gia và ham thích các hoạt động dạy học được 
giáo viên tổ chức trong lớp như: thực hiện thí nghiệm, suy nghĩ, thảo 
luận, trao đổi, trình bày bằng lời nói hay viết 
3.2. Giúp học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu 
 Biểu tượng ban đầu của học sinh thường là quan niệm hay khái 
quát chung chung về sự vật hiện tượng, có thể sai hoặc chưa thực sự 
 60 
chính xác về mặt khoa học. Vì là lần đầu tiên được hỏi đến nên học 
sinh ngại nói, sợ sai và sợ bị chê cười. Do đó giáo viên cần khuyến 
khích học sinh trình bày ý kiến của mình. Cần biết chấp nhận và tôn 
trọng những quan điểm sai của học sinh khi trình bày biểu tượng ban 
đầu. Biểu tượng ban đầu có thể trình bày bằng lời nói hay viết, vẽ ra 
giấy. Biểu tượng ban đầu là quan niệm cá nhân nên giáo viên phải đề 
nghị học sinh làm việc cá nhân để trình bày biểu tượng ban đầu. 
 Nếu một vài học sinh nào đó nêu ý kiến đúng, giáo viên không 
nên vội vàng khen ngợi hoặc có những biểu hiện chứng tỏ ý kiến đó là 
đúng vì nếu làm như vậy giáo viên đã vô tình làm ức chế các học sinh 
khác tiếp tục muốn trình bày biểu tượng ban đầu. Biểu tượng ban đầu 
của học sinh càng đa dạng, phong phú, càng sai lệnh với kiến thức 
đúng thì tiết học càng sôi nổi, thú vị, gây hứng thú cho học sinh và ý 
đồ dạy học của giáo viên càng dễ thực hiện hơn. 
Khi học sinh làm việc cá nhân để đưa ra biểu tượng ban đầu 
bằng cách viết hay vẽ ra giấy thì giáo viên nên tranh thủ đi một vòng 
quan sát và chọn nhanh những biểu tượng ban đầu không chính xác, 
sai lệnh lớn với kiến thức khoa học. Nên chọn nhiều biểu tượng ban 
đầu khác nhau để đối chiếu, so sánh ở bước tiếp theo của tiến trình 
phương pháp. Làm tương tự khi học sinh nêu biểu tượng ban đầu bằng 
lời nói. Giáo viên tranh thủ ghi chú những ý kiến khác nhau lên bảng. 
Những ý kiến tương đồng nhau thì chỉ nên ghi lên bảng một ý kiến đại 
diện vì nếu ghi hết sẽ rất mất thời gian và ghi nhiều sẽ gây khó khăn 
việc theo dõi các ý kiến khác nhau của giáo viên cũng như của học 
sinh. 
Sau khi có các biểu tượng ban đầu khác nhau, phù hợp với ý đồ 
dạy học, giáo viên giúp học sinh phân tích những điểm giống và khác 
nhau cơ bản giữa các ý kiến, từ đó hướng dẫn cho học sinh đặt câu hỏi 
cho những sự khác nhau đó. 
3.3. Kỹ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh 
 Dạy học theo phương pháp BTNB chú trọng nhiều đến hoạt 
động thảo luận của học sinh vì như đã nói ở trên hoạt động tìm tòi - 
 61
nghiên cứu để xây dựng kiến thức mới của học sinh là kết quả của 
hoạt động hợp tác. Trong quá trình thảo luận, các học sinh được kết 
nối với nhau bằng chủ đề thảo luận và trao đổi xoay quanh chủ đề đó. 
Học sinh cần được khuyến khích trình bày ý tưởng, ý kiến cá nhân của 
mình trước các học sinh khác, từ đó rèn luyện cho học sinh khả năng 
biểu đạt, đồng thời thông qua đó có thể giúp các học sinh trong lớp đối 
chiếu, so sánh với suy nghĩ, ý kiến của mình. Những ý kiến trái ngược 
quan điểm luôn là sự kích thích mạnh mẽ cho sự thảo luận sôi nổi của 
lớp học. 
 Thảo luận được thực hiện ở nhiều thời điểm trong dạy học bằng 
phương pháp BTNB, có thể là thảo luận để bộc lộ biểu tượng ban đầu 
của học sinh, có thể là thảo luận để đề xuất câu hỏi, đề xuất thí nghiệm 
hay cũng có thể để rút ra kết luận sau một thí nghiệm hay rút ra kết 
luận kiến thức cho bài học. 
 Có hai hình thức thảo luận trong dạy học theo phương pháp 
BTNB: thảo luận nhóm nhỏ (trong nhóm làm việc) và thảo luận nhóm 
lớn (toàn bộ lớp học). 
 Thảo luận nhóm nhỏ tạo điều kiện cho các học sinh đều có cơ 
hội trình bày ý tưởng của mình. Tuy nhiên, thảo luận nhóm nhỏ lại 
không yêu cầu cao đối với học sinh trong việc trình bày. Trong mức 
độ thảo luận này, các học sinh có thể tự do trình bày ý kiến với các 
thành viên của nhóm. Học sinh mạnh dạn hơn vì ý kiến được trình bày 
trong một cộng đồng nhỏ. 
 Thảo luận theo nhóm lớn (toàn bộ lớp học) có thể được tổ chức 
sau khi thực hiện thảo luận theo nhóm nhỏ, các nhóm cử đại diện 
nhóm trình bày hoặc được tổ chức sau khi cho học sinh làm việc cá 
nhân (đối với những câu hỏi ngắn hoặc những công việc không cần 
thiết phải thực hiện hoạt động nhóm nhỏ trước đó). 
 Cần phân biệt rõ thảo luận theo truyền thống trong một số 
phương pháp dạy học và thảo luận trong phương pháp BTNB. Thảo 
luận truyền thống được thực hiện bằng cách giáo viên đặt câu hỏi, lựa 
chọn một học sinh trả lời, sau đó nhận xét đúng hay sai trước khi 
chuyển sang một câu hỏi mới hoặc chuyển sang một học sinh khác 
 62 
cũng với câu hỏi đó. Thảo luận trong phương pháp BTNB hoàn toàn 
khác biệt vì được thực hiện bằng sự tương tác giữa các học sinh với 
nhau, có nghĩa là phần trả lời của học sinh sau bổ sung cho học sinh 
trước, hoặc đặt câu hỏi đối với ý kiến trước; hoặc trình bày một quan 
điểm mới; hoặc đưa ra tranh cãi ý kiến của nhóm mình. Cần thiết phải 
dành thời gian để rèn luyện các kỹ năng này của học sinh vì thảo luận 
theo hình thức này giúp rèn luyện ngôn ngữ nói cho học sinh rất hiệu 
quả. 
 Để điều khiển tốt hoạt động thảo luận của học sinh trong lớp 
học, ngoài việc tổ chức dạy học thoải mái, không gò bó, tạo một 
không khí làm việc tốt cho học sinh, giáo viên cần chú ý đến một số 
gợi ý sau để thực hiện điều khiển hoạt động của lớp học được thành 
công: 
 - Thực hiện tốt công tác tổ chức nhóm và thực hiện hoạt động 
nhóm cho học sinh. 
 - Khi thực hiện lệnh thảo luận nhóm, giáo viên cần chỉ rõ việc 
thành lập nhóm làm việc (nhóm nhiều người hay nhóm hai người), nội 
dung thảo luận là gì, mục đích của thảo luận. Lệnh yêu cầu của giáo 
viên càng rõ ràng và chi tiết thì học sinh càng hiểu rõ và thực hiện 
đúng yêu cầu. Không nên đưa ra các lệnh chung chung như "Bây giờ 
các em thảo luận theo nhóm đi" 
 - Khi học sinh thảo luận, cần để không khí lớp học sôi nổi, tất 
nhiên không có nghĩa là ồn ào và lộn xộn. Nhắc nhở học sinh trao 
đổi, thảo luận vừa nghe trong nhóm (đối với thảo luận nhóm nhỏ). 
 - Trong một số trường hợp, vấn đề thảo luận được thực hiện với 
tốc độ nhanh bởi có nhiều ý kiến của các học sinh khá, giỏi, giáo viên 
nên làm chậm tốc độ thảo luận lại để các học sinh có năng lực yếu hơn 
có thể tham gia. Tất nhiên việc làm chậm lại tùy thuộc vào thời gian 
của tiết học. 
 - Giáo viên nên để một thời gian ngắn (5-10 phút) cho học sinh 
suy nghĩ trước khi trả lời để học sinh có thời gian chuẩn bị tốt các ý 
tưởng, lập luận, câu chữ. Khoảng thời gian này có thể giúp học sinh 
 63
xoáy sâu thêm suy nghĩ về phần thảo luận hoặc đưa ra các ý tưởng 
mới. 
 - Nếu quan sát thấy một học sinh nào đó còn rụt rè chưa muốn 
nêu ý kiến, mặc dù giáo viên cảm nhận được em này đang muốn nói, 
giáo viên cần khuyến khích thậm chí chỉ định để học sinh này mạnh 
dạn phát biểu ý kiến của mình. Giáo viên cũng nên phân tích cho học 
sinh hiểu là cần phải nêu ý kiến cá nhân của mình để người khác được 
biết, thông qua đó mọi người có thể so sánh với ý kiến của mình để 
cùng tranh luận xây dựng kiến thức. Một số gợi ý giúp cho giáo viên 
phát hiện học sinh biết hoặc có ý kiến nhưng rụt rè không muốn phát 
biểu là: học sinh đang nghe người khác trình bày tỏ vẻ không đồng 
tình rồi im lặng, hoặc quay sang người bên cạnh bàn luận về ý kiến 
của người đang nói, hoặc đưa tay xin phát biểu mà không dám đưa cao 
để giáo viên thấy (những nhận biết này tùy theo kinh nghiệm của 
giáo viên trong quá trình dạy học). Muốn làm được điều này bắt buộc 
giáo viên phải quan sát tinh tế, bao quát lớp. 
 - Giáo viên tuyệt đối không được nhận xét ngay là ý kiến của 
nhóm này đúng hay ý kiến của nhóm khác sai. Nên quan sát nhanh và 
chọn nhóm có ý kiến không chính xác nhất cho trình bày trước để gây 
mâu thuẫn, kích thích các nhóm khác có ý kiến chính xác hơn phát 
biểu bổ sung. Để tránh mất thời gian khi các nhóm có ý kiến bổ sung 
lặp lại ý kiến nhóm trước, giáo viên yêu cầu các nhóm tiếp theo chỉ bổ 
sung ý kiến khác biệt hoặc bổ sung thêm những ý còn thiếu, làm rõ 
những ý chưa rõ ràng. Công việc này được thực hiện tương tự đối với 
thảo luận chung cả lớp với từng ý kiến cá nhân mà không phải ý kiến 
chung của cả nhóm. 
 - Khi học sinh trình bày ý kiến chưa đúng, giáo viên không nên 
chê bai hoặc nhận xét tiêu cực để tránh sự rụt rè, xấu hổ của học sinh. 
Những nhận xét tiêu cực không đúng thời điểm và nhất là khi học sinh 
trình bày trước tập thể lớp sẽ phản tác dụng giáo dục, gây bất lợi cho 
quá trình dạy học, vì sau đó học sinh ngại không chịu phát biểu hoặc 
phát biểu miễn cưỡng khi được yêu cầu, gây không khí nặng nề cho 
lớp học. Như đã nói ở trên, ý đồ dạy học theo phương pháp BTNB sẽ 
thành công khi có nhiều ý kiến trái ngược, không thống nhất để từ đó 
 64 
giáo viên dễ kích thích học sinh suy nghĩ, sáng tạo, đề xuất câu hỏi, thí 
nghiệm để kiểm chứng. Câu trả lời không do giáo viên đưa ra hay 
nhận xét đúng hay sai mà được xuất phát khách quan qua các thí 
nghiệm nghiên cứu. Ví dụ: Khi úp cốc thuỷ tinh lên ngọn nến đang 
cháy, có học sinh cho rằng nến vẫn tiếp tục cháy bình thường, có học 
sinh nói ngọn nến sẽ tắt ngay lập tức, ý kiến khác lại cho rằng ngọn 
nến tiếp tục cháy một thời gian ngắn rồi tắt. Lúc đó giáo viên không 
nên nhận xét ngay học sinh nào có ý kiến đúng mà yêu cầu các em 
làm thí nghiệm. Khi thực hiện thí nghiệm, chính học sinh sẽ rút ra kết 
luận và đối chiếu với ý kiến ban đầu của mình để nhận thấy mình 
đúng hay sai. 
 - Khi một học sinh có ý kiến ngây ngô, gây cười cho cả lớp 
hoặc một bộ phận học sinh, giáo viên nên chấn chỉnh mà phân tích 
cho học sinh thấy rằng cần phải tôn trọng ý kiến của người khác. Việc 
chấn chỉnh này nên thựa hiện một cách nhẹ nhàng ví dụ như: "Các em 
không nên cười ý kiến của bạn, cần tôn trọng lắng nghe ý kiến của 
người khác. Mà hiện tại chúng ta cũng đã biết các ý kiến được trình 
bày là đúng hay sai đâu? Vậy em A có ý kiến gì khác về vấn đề 
này?" 
 - Khi trả lời hoặc nêu ý kiến cá nhân, đa số học sinh có thói 
quen nhìn vào giáo viên và hướng phần trả lời của mình vào giáo viên. 
Giáo viên chú ý nên nhắc nhở nhẹ nhàng để học sinh biết là mình 
đang thảo luận với các bạn trong lớp chứ không phải đang thảo luận 
với giáo viên. Một số câu nhắc nhở mà giáo viên có thể sử dụng như: 
"B à, em đang thảo luận với bạn A chứ không phải với Cô (Thầy)"; 
"Bạn C đang muốn đặt câu hỏi cho em đấy!"; "D, em nghĩ gì về ý kiến 
của bạn E"; "H, em có bổ sung gì thêm cho ý kiến của bạn K 
không?" 
 - Như đã nói ở trên, vai trò của giáo viên trong phương pháp 
BTNB, cũng giống như đối với các phương pháp dạy học tích cực 
khác, đó là hướng dẫn. Người giáo viên không phải là trung tâm của 
quá trình dạy học, chỉ nói và đặt câu hỏi mà ngược lại, giáo viên nên 
nói ít cũng như hạn chế đưa ra những câu trả lời chuẩn xác cho học 
sinh. Điều quan trọng ở đây là giáo viên hướng dẫn cho học sinh thảo 
 65
luận, giúp các em tìm thấy sự thống nhất ý kiến và khuyến khích học 
sinh thảo luận tích cực. 
 - Khi học sinh bế tắc trong thảo luận, giáo viên có thể gợi ý 
thêm bằng các câu hỏi gợi ý hoặc những câu khẳng định mang tính 
chất dẫn dắt để học sinh chú ý đến những dữ liệu, thông tin, đặc điểm 
liên quan đến việc tìm ra câu trả lời. Ví dụ: "Chúng ta hãy nhìn vào 
những số liệu này"; "Các em để ý ở"; "Các em hãy thử" 
 - Cho phép học sinh thảo luận tự do, tuy nhiên giáo viên cần 
hướng dẫn học sinh tới các kết luận khoa học chính xác của bài học. 
 - Trong quá trình thảo luận mở theo tinh thần phương pháp 
BTNB, học sinh có thể sẽ đặt ra các câu hỏi khó, vượt ngoài tầm kiến 
thức trong chương trình hoặc những câu hỏi mà với những thí nghiệm 
thực hiện không thể tìm ra câu trả lời hay chứng minh; thậm chí đôi 
khi giáo viên gặp những câu hỏi khó vượt khả năng kiến thức của 
mình để trả lời cho học sinh. Cách giải quyết khi điều khiển thảo luận 
là giáo viên nên ghi lại những câu hỏi trên bảng, có thể sắp xếp theo 
một tiêu chí nào đó tùy theo mục đích dạy học hoặc phân thành hai 
nhóm: nhóm câu hỏi có thể trả lời qua việc thực hiện thí nghiệm, tìm 
tòi - nghiên cứu của học sinh và nhóm câu hỏi không thể tìm thấy câu 
trả lời qua các thí nghiệm, học sinh sẽ tìm được câu trả lời từ giáo 
viên, từ các nhà khoa học, từ sách báo, tài liệu hoặc từ Internet. 
 Đối với những câu hỏi vượt ngoài tầm kiến thức của chương 
trình, giáo viên nên giải thích với học sinh "Câu hỏi này rất thú vị 
nhưng ở chương trình năm nay chúng ta chưa học, chúng ta sẽ tìm 
hiểu nó vào năm lớp"; "Câu hỏi này rất thông minh nhưng các thí 
nghiệm đơn giản trong lớp học này chúng ta không thể làm thí nghiệm 
để chứng minh nó được, sau này khi học lên những bậc học cao hơn, 
có điều kiện các em sẽ được tìm hiểu thêm" 
 Khi giáo viên gặp câu hỏi khó, vượt ngoài sự hiểu biết của 
mình, không thể trả lời ngay cho học sinh thì nên nói nhẹ nhàng như: 
"Câu hỏi này rất hay, Cô (Thầy) cũng chưa biết phải trả lời thế nào 
nhưng chúng ta sẽ cố gắng cùng nhau tìm hiểu"; "Đây là câu hỏi khó, 
trong thời gian ở lớp, chúng ta dành để tập trung giải quyết các vấn đề 
 66 
đơn giản trước. Vấn đề này cô (thầy) sẽ tìm hiểu và chúng ta sẽ trở lại 
với nó trong những tiết học sau" Sau khi thông báo như vậy, giáo 
viên phải ghi chú lại để tìm hiểu và trả lời cho một học sinh ở một dịp 
khác. Tuyệt đối không nên nói cho qua chuyện và quên lời hứa vì làm 
như vậy học sinh sẽ mất lòng tin ở giáo viên, gây tác dụng không tốt 
trong giáo dục. 
3.4. Kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp BTNB 
 Hoạt động nhóm giúp học sinh làm quen với phong cách làm 
việc hợp tác với nhau giữa các cá nhân. Muốn tổ chức tốt hoạt động 
nhóm cần tập cho học sinh làm quen dần dần qua nhiều tiết học, nhiều 
môn học. Khi học sinh đã quen với kiểu hoạt động này thì việc thực 
hiện hoạt động nhóm của giáo viên sẽ thuận lợi hơn. Kỹ thuật hoạt 
động nhóm được thực hiện ở nhiều phương pháp dạy học khác, không 
phải một đặc trưng của phương pháp BTNB. Tuy nhiên trong việc dạy 
học theo phương pháp BTNB, hoạt động nhóm được chú trọng nhiều 
và thông qua đó giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc khoa 
học, rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh mà chúng ta sẽ phân tích kỹ hơn 
trong phần nói và rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cho học sinh. 
 Mỗi nhóm không được quá nhiều học sinh vì khi số lượng đông 
sẽ có một số học sinh không có cơ hội làm việc nếu các học sinh này 
rụt rè hoặc một số học sinh sẽ không chịu làm việc do chây lười. 
Nhóm làm việc lý tưởng là từ 4 đến 6 học sinh. Trong một số trường 
hợp giáo viên có thể thực hiện nhóm làm việc hai học sinh khi không 
cần phải thảo luận nhiều hoặc những hoạt động chỉ cần hai người là 
đủ. Ví dụ: cho từng cặp hai học sinh làm việc theo nhóm 2 người co 
duỗi tay và sờ nắn vào cánh tay lẫn nhau để cảm nhận điều gì đang 
xảy ra trong cánh tay cử động. 
 Mỗi nhóm học sinh được tổ chức gồm một nhóm trưởng và một 
thư kí để ghi chép chung các phần thảo luận của nhóm hay phần trình 
bày ra giấy (viết lên áp-phích) của nhóm. Nhóm trưởng sẽ là người đại 
diện cho nhóm trình bày trước lớp các ý kiến, quan điểm của nhóm 
mình. Việc của nhóm trưởng hay thư kí là do nhóm học sinh tự định 
đoạt. Giáo viên không nên can thiệp sâu vào vấn đề tổ chức nhóm này 
 67
của học sinh. Tuy nhiên, qua nhiều tiết dạy khác nhau, giáo viên nên 
yêu cầu các học sinh trong nhóm thay đổi, luân phiên nhau làm nhóm 
trưởng, làm thư ký để các em tập trình bày (bằng lời hay viết). 
Giáo viên cần phân tích cho học sinh hiểu không nhất thiết cứ 
luôn luôn phải cử học sinh khá giỏi làm trưởng nhóm. Vì nếu làm như 
vậy, phần lớn hoạt động của nhóm sẽ chủ yếu là hoạt động của cá 
nhân học sinh này trong trường hợp các học sinh khác của nhóm có 
trình độ yếu hơn học sinh làm trưởng nhóm. Tuy nhiên, lúc đầu mới 
cho học sinh làm quen với hoạt động nhóm thì giáo viên nên đề nghị 
nhóm chọn các học sinh khá, giỏi làm nhóm trưởng, thư ký để thực 
hiện thành công mục đích dạy học và làm mẫu cho học sinh khác theo 
dõi cách trình bày, diễn giải 
 Nhất thiết phải có nhóm trưởng (người đại diện nhóm) để trình 
bày phần thảo luận của nhóm trước lớp nhưng không nhất thiết nhóm 
phải có thư ký. Có thể nhóm trưởng vừa kiêm công việc của một thư 
ký. Nói chung là trong trường hợp này không có quy tắc nào cho việc 
tổ chức nhân sự của nhóm. Mấu chốt quan trọng nhất là các học sinh 
trong nhóm cần làm việc tích cực với nhau, trao đổi, thảo luận sôi nổi, 
các học sinh tôn trọng ý kiến của nhau, các cá nhân biết lắng nghe, tạo 
cơ hội cho tất cả mọi người trong nhóm trình bày ý kiến của mình, 
biết chia sẻ đồ dùng thí nghiệm, biết tóm tắt các ý kiến thống nhất của 
nhóm, các ý kiến chưa thống nhất, có đại diện trình bày ý kiến chung 
của nhóm sau thảo luận trước tập thể lớp là một nhóm hoạt động đúng 
yêu cầu. 
 Trong quá trình học sinh thảo luận theo nhóm, giáo viên nên di 
chuyển đến các nhóm, tranh thủ quan sát hoạt động của các nhóm. 
Giáo viên không nên đứng một chỗ trên bàn giáo viên hoặc bục giảng 
để quan sát lớp học. Việc di chuyển của giáo viên có hai mục đích cơ 
bản: quan sát bao quát lớp, làm cho học sinh hoạt động nghiêm túc 
hơn vì có giáo viên tới; kịp thời phát hiện những nhóm thực hiện lệnh 
thảo luận sai để điều chỉnh hoặc tranh thủ chọn ý kiến kém chính xác 
nhất của một nh

File đính kèm:

  • pdfPPGD_BAN_TAY_NAN_BOT.pdf