Lịch sử mĩ thuật thế giới

Thời cổ sơ (Thế kỷ VII - VI trước công nguyên)

Cũng giống như kiến trúc, điêu khắc Hy Lạp cũng được phát triển qua 3 thời kỳ. ở thời kỳ cổ sơ hình tượng điêu khắc rất đơn giản, trước đó nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp đã bắt đầu những bước đi dò dẫm từ thế kỷ X - VIII. Phần lớn là các tượng nhỏ bằng đồng thanh, đồng nung, hoặc ngà voi thể hiện một cách sơ lược hình tượng các con vật, con người hay các quái vật trong sự kết hợp giữa người và vật. Đôi khi còn có những tượng bằng gỗ, diễn tả các vị thần. Điêu khắc thời kỳ này gắn liền với tôn giáo.

 

doc44 trang | Chia sẻ: dung89st | Lượt xem: 3267 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Lịch sử mĩ thuật thế giới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng động, người Ai Cập cổ đã nghĩ ra kỹ thuật gắn bột thuỷ tinh.
Tượng vua Rahôtép và vợ là hoàng hậu Nophre (cuối triều vua thứ III). Nhìn thẳng hai pho tượng được làm theo nguyên tắc nhìn ngay ngó thẳng của Ai Cập. Cả hai pho tượng đều được tạc từ khối đá nguyên, ngồi tĩnh lặng, tay bó vào thân. Tượng được tô màu: Vua màu đậm, hoàng hậu mắt sáng hơn. Mắt được khảm và vẽ đậm, trông giống như người thật. Nhìn nghiêng ta có thể cảm nhận được sức sống tràn trề trên hai cơ thể, chất da thịt sống động gợi cảm.
Nói đến nghệ thuật điêu khắc Ai Cập, không thể bỏ qua tượng hoàng hậu Nephéctiti vợ vua Akhênatôn. Nhiều tượng chân dung của bà được giữ đến ngày nay, đã đánh dấu sự chuyển biến trong phong cách nghệ thuật Ai Cập. Tượng mang nhiều chất hiện thực, sống động, bớt vẽ trang nghiêm, quy tắc như thời cổ vương quốc.
5.6. Bức chạm gỗ mạ vàng 
Mặt sau chiếc ngai trong mộ diễn tả cảnh Pharaôn Túttankhamôn và vợ (Khoảng 1350 TCN)
Túttankhamôn là người kế vị ngai vàng Akhênatôn, ông lên ngôi từ bé và mất sớm. Lăng mộ của ông là một trong những lăng mộ đẹp nhất của Ai Cập. Trong lăng của ông khi khai quật, các nhà khảo cổ học đã thu được nhiều hiện vật. Người ta đem chúng về và trưng bày trong 11 văn phòng lớn ở bảo tàng Cairô mới hết. Trong đó có chiếc ngai, mặt sau ngai có bức chạm gỗ, được sơn mạ vàng, nó diễn tả cảnh vua và hoàng hậu. Từ dáng ngồi của nhà vua, đến cách tạo hình và bộ lộ tình cảm của hoàng hậu ta đã thấy có sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật cũng như quan niệm sống của người Ai Cập. Tỉ lệ của hoàng hậu không nhỏ hơn vua. Trên đầu họ là thần mặt trời hiện diện là một quả cầu vàng, với những tia sáng là những cánh tay nhỏ vươn xuống chúc phúc cho 2 người. Các bức chạm khối nổi nhẹ nhàng, đường nét mềm mại, tỉ lệ tương đối cân đối, hài hoà. Hình tượng nhân vật đã bớt nặng nề và mang tính chất hiện thực phóng khoáng hơn thời kỳ trước.
5.7. Bích hoạ Ai Cập
Tác phẩm: “Cuốn sách của người chết” được vẽ trong mộ của một viên quản gia kiêm thư lại của Hoàng gia thuộc vương triều thứ 19 (1320 - 1290 TCN). Một sự kết hợp tuyệt vời của đường nét và màu sắc trong tranh. Tác giả đã chỉ cho người chết con đường, cách thức để đi tới thế giới vĩnh cửu của thần Ôdirít. 
Toàn bộ tranh được chia làm 3 phần: Phía trên là các vị thần thẩm định, mỗi vị đại diện cho một quận của Ai Cập. Phía dưới là người chết được thần ướp xác Amubít dẫn đường. Nội dung chính trong bức tranh này thể hiện người chết sẽ nhận được sự phê chuẩn của thần trí tuệ. Cuối cùng thần Amubít sẽ đưa người đó đến thần Ôdirít, người cai quản dưới lòng đất. 
Tranh vẽ toàn mảng bẹt, phẳng. Cái đẹp ở đây là nhịp điệu của mảng trắng, đậm trong tranh, sự kết hợp giữa hình và chữ. 
 Tranh “Săn chim”: Nhân vật trong tranh được vẽ với tỷ lệ lớn nhất, nhỏ hơn là vợ và con gái anh ta. Tỷ lệ của các nhân vật được thể hiện theo chỗ đứng, địa vị của nhân vật trong xã hội, tôn giáo, hoặc gia đình. 
Người Ai Cập chưa diễn tả nhân vật theo như luật xa gần. Họ có quan niệm riêng, mang tính dân tộc đậm nét. Tác giả đã rất giỏi khi thể hiện một cách chính xác cây, hoa đặc trưng của Ai Cập và các giống thú, chim, bướm,  màu sắc tươi sáng, nhẹ nhàng. 
Những bức tranh này còn biểu hiện sự tuyệt vời về đường nét trong tác phẩm.
Chạm gỗ nắp quan tài, Sách của người chết, Bên phải, tranh dưới: Săn chim
5.8. Đền Kác nác (Karnak) thờ thần Mặt trời A.Mon
Là một trong những ngôi đền đẹp nhất của Ai Cập cổ đại, được xây dựng trong thời kỳ Tân vương quốc. Theo cấu trúc chung của các đền miếu thờ ở Ai Cập. 
Phía bên ngoài là cổng đền: thường là cột tháp với những bức tường hai bên. Đi qua sân rộng hình chữ nhật là phòng cột đỡ trần nhà, có mái che. Sau cùng là hậu cung. Phòng chính trong đến Kác nác có diện tích khoảng 5000m2 với 16 hàng cột đỡ trần nhà, gồm 134 cột đá lớn,  
Qua một vài kích thước cụ thể như vậy ta thấy vẻ đẹp hùng vĩ của kiến trúc đền thờ Ai Cập.
Trên các cây cột có khắc đầy các hình vẽ, trên cổng đền, ở mọi chỗ trên kiến trúc là những phù điêu chạm nổi kẻ vẽ các cuộc chinh chiến của nhà vua. Nói liền đền Kác nác với đền Lu xô là hai dãy tượng Xphanh đấu cừu kéo dài trên 2000m.
6. Đặc điểm của mỹ thuật Ai Cập cổ đại
Mỹ thuật Ai Cập cổ đại suốt 3000 năm tồn tại không có những biến động lớn. Ngay từ thời cổ vương quốc nghệ thuật dã có những thành tựu đáng khâm phục ở mọi lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ. Sở dĩ như vậy vì trong nghệ thuật người Ai Cập có những quan niệm, những quy định, các nghệ sĩ khi sáng tác phải tuân thủ nghiêm ngặt. Vì vậy tính chất dân tộc thể hiện đậm nét trong các loại hình nghệ thuật Ai Cập cổ đại. Điều đó góp phần hình thành một số đặc điểm chúng cho nghệ thuật tạo hình.
Nghệ thuật Ai Cập luôn hướng tới sự vĩnh hằng, sự trường tồn. Điều này thể hiện trong kiến trúc, điêu khắc và bích hoạ. Các tác phẩm nghệ thuật của Ai Cập được làm bằng chất liệu bền vững và chúng tồn tại cho tới tận ngày hôm nay. Quan niệm, lòng tin vào sự bất diệt của linh hồn đã chi phối mạnh mẽ tới nghệ thuật tạo hình và tạo ra những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, xứng đáng là một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại.
Nghệ thuật Ai Cập mang nặng tính chất tôn giáo. Thông qua các phần còn lại ta thấy các nghệ sĩ Ai Cập đã rất ưu tiên đề tài tôn giáo, tín ngưỡng. 
Bị ảnh hưởng của thần thoại, tôn giáo họ đã sáng tác ra nhiều hình tượng thần bí, siêu thực như hình tượng các vị thần đầu thú mình người, tượng nhân sư đầu người mình sư tử. Chính đặc điểm thứ nhất đã tạo ra tiền đề nảy sinh đặc điểm thứ hai.
Những ước lệ tạo hình cổ sơ đã chi phối nghệ thuật Ai Cập trong hai lĩnh vực điêu khắc (phù điêu) và bích hoạ. Các hình tượng phù điêu và bích hoạ Ai Cập đã được thể hiện hoặc nhìn chính diện nghiêm trang, ngay ngắn hoặc là sự kết hợp của đầu mặt nghiêng, thân thẳng chân nghiêng. Hai bàn chân nhìn nghiêng và được nhìn từ phía ngón cái là một đặc điểm đặc biệt trong các hình tượng phù điêu và bích hoạ Ai Cập. Sở dĩ người Ai Cập tạo hình như vậy vì họ quan niệm về sự toàn vẹn của hình tượng. Họ muốn trên một hình tượng nhưng có thể nhìn thấy nhân vật ở tất cả các hướng. Mặt khác các hướng chọn để diễn tả phải là hướng mà các đặc điểm được thể hiện rõ đặc trưng nhất. Ví dụ con mắt nhìn nghiêng không cho thấy rõ “mắt” bằng con mắt nhìn thẳng; Bàn chân nhìn từ phía ngón cái và nghiêng có đặc điểm hơn,  Như vậy người Ai Cập đã rất khéo chọn lựa và khéo sắp xếp. Nhìn thoáng qua ta thấy hình vẽ Ai Cập có dạng vặn và nhiều chi tiết tưởng như không hợp lý phải nghiên cứu kỹ mới thấy sự sáng tạo và tài năng của người Ai Cập khi tạo hình. Như vậy mới có cái nhìn đúng đắng về giá trị của nghệ thuật Ai Cập.
Trong nghệ thuật Ai Cập, các loại hình nghệ thuật như kiến trúc, điêu khắc, bích hoạ luôn gắn bó với nhau. Nghệ thuật Ai Cập là nghệ thuật tổng hợp trong đó kiến trúc phát triển sớm nhất và mạnh nhất. Điêu khắc và tranh vẽ gắn với kiến trúc. Tất cả đều thống nhất phong cách và hoà hợp trong một tổng thể hoàn chỉnh.Tất cả những đặc điểm trên đã kết hợp nhuần nhuyễn với nhau tạo ra sự độc đáo, riêng biệt cho nghệ thuật tạo hình Ai Cập. Tuy nó bị chi phối bởi tôn giáo, bởi ý tưởng về sự vĩnh hằng, hay siêu hình thần bí thì nghệ thuật Ai Cập vẫn rất phong phú về thể loại. 
Những ước lệ tạo hình cổ sơ mặc dù theo các nghệ sĩ suốt trong quá trình sáng tạo và phát triển. Nhưng không vì thế mà nghệ thuật Ai Cập đơn điệu và không thay đổi. Trái lại phong cách nghệ thuật Ai Cập mặc dù vẫn thống nhất nhưng vẫn có sự chuyển biến phong cách qua các thời kỳ từ cổ đến trung và tân vương quốc. Có một điều chắc chắn rằng, nghệ thuật Ai Cập thống nhất và phát triển theo một hướng đi riêng, có thay đổi song vẫn giữ được đặc điểm, quan niệm tạo hình của mình.
 Nghệ thuật Ai Cập là một nền nghệ thuật sáng tạo, để lại nhiều thành tựu, kỳ quan cho thế giới và mang đậm sắc thái dần .
Ai cập xứng đáng là cái nôi đầu tiên của văn minh nhân loại như người ta vẫn đánh giá từ nhiều thế kỷ trước.
Nữ hoàng Ne phititi
BÀI 3: MỸ THUẬT HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Khái quát về mỹ thuật Hy Lạp cổ đại
Sau Ai Cập cổ đại, vào khoảng thế kỷ XVIII TCN, ở phía bên kia Địa Trung Hải, Hy Lạp ra đời, lãnh thổ của nó bao gồm Hy Lạp ngày nay và các đảo thuộc biển Ê Giê và vùng Tây Tiểu á. Hy Lạp không thuận lợi về nông nghiệp song lại tốt trong việc giao thông trên biển. Với tài nguyên dồi dào đã tạo điều kiện cho Hy Lạp phát triển thủ công nghiệp và ngoại thương. Nó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển nền văn minh Hy Lạp trong đó có nghệ thuật tạo hình.
Cho đến tận ngày nay, khi nhắc đến Hy Lạp người ta sẽ nghĩ ngay đến đền thờ Pác Tê Nông (Parthénon), đến các pho tượng trên biển của Hy Lạp như tượng người ném đĩa, tượng vệ nữ Mi lô,  nghệ thuật Hy Lạp đã phát triển và để lại nhiều thành tựu vĩ đại.
Thành tựu của nghệ thuật tạo hình Hy Lạp vừa biểu hiện sự sáng tạo tuyệt vời của người Hy Lạp vừa chứng tỏ đỉnh cao về sự mẫu mực của Hy Lạp về trí tuệ trong tạo hình. Con người thời nay không chỉ khâm phục trước những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu của Hy Lạp. Họ đã tìm thấy trong nền nghệ thuật cổ đại này một tư tưởng nhân văn cao thượng, một nền nghệ thuật hiện thực, ca ngợi giá trị và vẻ đẹp của con người. Đây là cơ sở để xây dựng một nền văn hoá mới, thấm đẫm những tư tưởng nhân văn.
Nhà nước Hy Lạp cổ đại là xã hội chiếm hữu nô lệ chứa đựng những tư tưởng dân chủ tiến bộ, là Nhà nước thông bang, ở đó có hai vua với quyền lực như nhau, vừa là thủ lĩnh quân sự, vừa là tăng lữ và người xử án. Chế độ xã hội ở đây là chế độ dân chủ chủ nô, chế độ đó, mở đường cho các nhà khoa học, những nghệ sĩ, những công dân tự do này được phát triển tài năng, trí sáng tạo. Điều này giúp nghệ thuật cũng như khoa học Hy Lạp cổ đại phát triển mạnh.
Nghệ thuật Hy Lạp còn được nuôi dưỡng bằng một nguồn đất đặc biệt - nguồn thần thoại Hy Lạp. Quan niệm của người Hy Lạp về thế giới thần linh giống như thế giới con người. Đó là quan niệm “thần nhân đồng hình”. Quan niệm này chi phối tới việc xây cất các công trình kiến trúc. Những câu chuyện gợi nguồn cảm hứng sáng tạo cho các nghệ sĩ tạo hình. Họ tìm thấy ở đây chất thơ, chất cảm xúc, thúc đẩy họ sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, thấm đượm tinh thần nhân văn. 
Năm 776 TCN thế vận hội lần đầu tiên tổ chức tại Hy Lạp. Phong trào rèn luyện sức khoẻ để trở thành các chiến binh dũng mãnh đồng thời tạo ra những cơ thể đẹp đẽ cân đối. Đó là nguồn mẫu hình lý tưởng cho các nghệ sĩ Hy Lạp nghiên cứu sáng tạo ra tỷ lệ vàng cho hình tượng con người. Hội tụ tất cả những yếu tố trên là điều kiện tuyệt vời cho sự phát triển của văn hoá, nghệ thuật Hy Lạp. Nghệ thuật Hy Lạp nhất là kiến trúc và điêu khắc đã đạt tới đỉnh cao chỉ sau hơn 200 năm, từ thế kỷ VII đến V TCN.
2. Nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại
Trong đời sống của người Hy Lạp thời cổ đại, tôn giáo đóng vai trò quan trọng. Họ thờ rất nhiều vị thần. Thể loại kiến trúc phát triển là kiến trúc đền thờ gần như toàn thể các công trình xây dựng có giá trị nghệ thuật, to đẹp nhất thuộc về tôn giáo. Kích thước đền thờ vừa phải, không quá lớn đồ sộ. Nó cũng giống nghệ thuật kiến trúc Ai Cập ở chỗ kiến thức kiến trúc chính là kiến thức cột. Kiến trúc Hy Lạp có 3 thức cột chính: 
Thức Đôríc, thức Iônic, và thức Corinthian. Sự khác nhau giữa các thức cột này được phân biệt bởi phần đầu cột và các khía rãnh. 
Cột Đôríc có hai mươi khía rãnh khá rộng. Hai mươi bốn đôi khi là bốn tám khái của cột Ioníc sâu hơn, khít hơn. Cột Đôríc ra đời sớm nhất và phát triển ở Pðloponnêse và các khu dân cư ở miền Nam ý và đảo Sixin (Sicile). 
Phong cách Iôníc thanh mảnh và duyên dáng hơn. Phần đầu cột được trang trí bằng hình guột cột Đôríc Iônic Côranhtiêng trang trí. ở thời Hy Lạp hoá thức Cô ranh tiêng được sử dụng nhiều. Phần đầu cột được trang trí bằng những hoạ tiết và cách điệu mềm mại và trang nhã.
Đền thờ Pác-tê- non (Partenon) được khởi công trên đồi Acrôpôn (Acropolis) thờ nữ thần Atêna (Athena): là đền thờ kết hợp hài hoà giữa sự khoẻ khoắn của thức Đô níc và sự duyên dáng nhẹ nhàng của thức Iônic. 
Đền Pác- tê- nông (Partenon)
Vẻ đẹp của Pác tê non thể hiện trong sự cân đối, hài hoà về tỷ lệ giữa các bộ phận kiến trúc. Nó còn bộc lộ trong sự đơn giản, trang nhã của khối kiến trúc chủ yếu dựa trên những đường thẳng với trang trí bằng các tác phẩm điêu khắc và phù điêu dạng trụ ngang. Kiến trúc cân đối hài hoà của Pác tê non được trang điểm thêm đẹp đẽ, lộng lẫy bằng các tác phẩm điêu khắc của Phi đi át và các học trò của ông. Tác giả của Pác tê non là Ichtinốt và Can Li Crát.
Ngoài Pác tê non, Hy Lạp còn rất nhiều đền thờ nổi tiếng: Đền thờ thần Dớt ở Péc Gam Ô Lym Pia và đền thờ thần biển cả Pô Dây Đon (Poseidon) ở phía Nam Aten, 
Cho tới thế kỷ VI TCN, các đền thờ của Hy Lạp đều được làm bằng gỗ hoặc gạch. Đến thế kỷ V, người Hy Lạp chuyển sang các kiến trúc đá cẩm thạch lộng lẫy và sang trọng, với bốn mặt đền là các hàng cột đá. Kiến trúc tôn giáo là thể loại biểu hiện tài năng của người Hy Lạp. Bên cạnh đó họ còn quy hoạch đô thị, xây dựng các nhà hát, thành luỹ,  vào thời kỳ các thế kỷ IV - II TCN. Từ thế kỷ IV trong kiến trúc Hy Lạp còn phát triển loại kiến trúc lăng mộ, có những lăng lớn, đẹp đẽ được xếp vào một trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại như lăng vua Mô xô lơ (Mausole) ở Halicácnat (Halicrnasse).
Kiến trúc Hy Lạp nói chung là vẻ đẹp trang nhã, mực thước, trong sáng với kết cấu kiến trúc chính là phong cột trên mặt bằng hình chữ nhật.
3. Nghệ thuật Điêu khắc Hy Lạp cổ đại	
3.1 . Thời cổ sơ (Thế kỷ VII - VI trước công nguyên)
Cũng giống như kiến trúc, điêu khắc Hy Lạp cũng được phát triển qua 3 thời kỳ. ở thời kỳ cổ sơ hình tượng điêu khắc rất đơn giản, trước đó nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp đã bắt đầu những bước đi dò dẫm từ thế kỷ X - VIII. Phần lớn là các tượng nhỏ bằng đồng thanh, đồng nung, hoặc ngà voi thể hiện một cách sơ lược hình tượng các con vật, con người hay các quái vật trong sự kết hợp giữa người và vật. Đôi khi còn có những tượng bằng gỗ, diễn tả các vị thần. Điêu khắc thời kỳ này gắn liền với tôn giáo.
Trong nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp xuất hiện 2 loại tượng: Tượng nam khoả thân và nữ mặc áo dài. Những tượng này được thể hiện trong dáng đứng thẳng, hai tay buông theo thân. Tượng trong dáng tĩnh, nghiêm trang cân đối. Tỷ lệ cơ thể cũng như hình khối chưa chuẩn mực, chất liệu sử dụng là đá.
Thời gian này, trong điêu khắc Hy Lạp vẫn thấy những ảnh hưởng của ước lệ tạo hình phương Đông. Tượng “nhìn ngay ngó thẳng” và gắn liền với tôn giáo tín ngưỡng. Sang thế kỷ VI trong phong cách làm tượng đã có sự chuyển biến. Các tượng thẳng đứng như cây cột dần được thay thế bằng những pho tượng dáng động từ đơn giản đến phức tạp dần. Nửa đầu thế kỷ V, điêu khắc Hy Lạp được đánh dấu bằng các tác phẩm chạm nổi ở đền thờ thần diễn tả 12 chiến công người anh hùng Hecquyn (Hercules). Con người được diễn tả ở nhiều tư thế vận động khác nhau, sinh động. Hình tượng điêu khắc đã thoát khỏi sự chi phối của ước lệ tạo hình cơ sở. Nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp bước vào thời kỳ mới.
3.2 . Thời cổ điển (Thế Kỷ V - IV trước công nguyên)
Từ giữa thế kỷ V thành bang A ten đã phát triển trở thành trung tâm lớn của Hy Lạp cả về chế độ xã hội cũng như văn hoá nghệ thuật. Người đứng đầu về điêu khắc thời này là Phi đi át (Phiđias), Pô ly clét (Polycléte) và Mirông.
Pôlyclét dành nhiều thời gian cho nghiên cứu và sáng tạo của mình cho việc tìm ra tỷ lệ chuẩn cân đối, hài hoà của cơ thể nam giới. Tiêu biểu là tượng Đôripho (Doryphore) người lực sỹ vác giáo: có tỷ lệ 7 đầu, cân đối, hài hoà của các tỷ lệ giữa đầu, thân, tay, chân, sự mềm mại, sống động của hệ thống cơ, chất đá đã biến thành da thịt, có cảm nhận được sự vững chắc của cơ thể, sự chuẩn xác về giải phẫu tạo hình kết hợp với cái đẹp của đường nét, hình khối.
Mirông lại nghiên cứu dáng động của hình tượng con người. Tiêu biểu là tượng “người ném đĩa” cho ta hình ảnh của một lực sĩ cường tráng đang vận động hết sức của cơ thể để vung tay ném đĩa, ở đó có sự phối hợp cái đẹp về dáng, về hình, về tỷ lệ. Trong sự phối hợp phần chân nghiêng và thân nhìn chính diện. Sự kết hợp đã tạo ra sự chuyển động và vẻ đẹp hoàn mỹ cho tác phẩm.
Người ném đĩa - Mi ron
Sang thế kỷ IV, điêu khắc Hy Lạp lại tiến thêm một bước, nếu ở thời kỳ trước các tác giả muốn đạt đến độ mẫu mực về tỷ lệ, hình khối, tạo dáng động thì thế kỷ này họ lại muốn tăng thêm chất liệu thực cho tượng, bớt chất lý tưởng hoá với đại biểu là: Xcopa (Scopas), Pra Xi Ten (Praxitéle), Li Xíp (Lisippe), Mô Xô Lơ,  tác phẩm của ông như (Hernes), Héc Mét, tượng nữ thần săn bắn ác Tê Mít và đặc biệt là các tượng vệ nữ như vệ nữ của cơ thể nữ. Đến đây các nghệ sĩ Hy Lạp đã phô diễn vẻ đẹp tuyệt mỹ mà tạo hoá đã ban tặng cho “phái yếu” qua những pho tượng khoả thân. Có lẽ cũng vì lẽ đó mà khi tìm thấy hai pho tượng vô danh: Vệ nữ Mi lô và tượng nữ thần chiến thắng ở Xa Mô Crát: Hai phong cách và hai vẻ đẹp khác nhau: Một lý tưởng hoà và một tràn đầy, hiện thực.
3.3. Thời kỳ Hy Lạp hoá (thế kỷ III - II trước công nguyên)
Ở thời kỳ này, Aten không còn là trung tâm cường thịnh duy nhất như thời trước, trên những miền đất mới ở Tiểu á và Bắc phi mọc lên những trung tâm mới. Điêu khắc cũng như điêu khắc đều muốn tìm đến một phong cách mới. Hoặc tiếp tục phong cách của giai đoạn trước nhưng đẩy cao hơn về mặt biểu hiện những tình cảm đau thương, bi thảm như những tác phẩm “người lính Gô loa bị trọng thương” hay người chiến binh gô loa giết vợ và tự sát”,  Trong pho tượng này gây ấn tượng mạnh cho thị giác và cảm xúc. Hoặc phức tạp hơn trong phong cách diễn tả, hoặc cường điệu hoá. Thể loại thường gặp trong điêu khắc thời Hy Lạp hoá là nhóm tượng và phù điêu lớn
Phù điêu trên riềm mũ cột đền thờ Pðcgam dài khoảng 120m, bao quanh đền thờ, diễn tả cuộc giao chiến giữa các thần linh và những người khổng lồ. Mọi hình tượng đều được diễn tả bằng kỹ thuật điêu luyện, hình khối mạnh mẽ, cường độ dữ dội trong động tác.
Nhóm tượng Lao Cun: Mang đầy chất bi tráng, diễn tả một cảnh tượng khủng khiếp về số phận con người. Nhóm tượng diễn tả 3 nhân vật, mỗi người mang một nét đẹp riêng. Ngoài cái đẹp lý tưởng về hình thể, tác giả còn muốn nhấn mạnh vẻ đẹp về tính cách, về sự bộc lộ nội tâm. Qua hình dáng, thái độ khác nhau của 3 nhân vật đã bộc lộ nỗi khiếp sợ, đau đớn, kiệt sức của 3 cha con. Sức căng vặn của 3 cơ thể, kết hợp với đường cong ngoằn ngoèo của hai con rắn đã tạo nên nhóm tượng có bố cục chặt chẽ, gắn bó thể hiện nội dung sâu sắc
4. Nghệ thuật hội hoạ, đồ hoạ Hy Lạp
Nghệ thuật hội hoạ Hy Lạp hầu như không còn giữ được tác phẩm nào, các tác giả, tác phẩm danh tiếng của họ còn được lưu truyền trong sách, truyện ta biết được tên tuổi: Apenlơ, Giơxít, Pôlinhơ,  với đề tài chủ yếu là lịch sử và thần thoại Hy Lạp. Các tác phẩm được vẽ với phong cách tả thực, sinh động. Ngoài ra có một nguồn tài liệu khá phong phú cho nghệ thuật vẽ hình mang tính đồ hoạ, đó là những hình vẽ trên những chiếc bình cổ Hy Lạp. Bình cổ Hy Lạp có nhiều kiểu dáng đẹp. Điều đáng chú ý là các hình vẽ trang trí trên đồ gốm cổ Hy Lạp có hai cách trang trí: Hình vẽ đen trên nền trắng sáng hoặc hình vẽ màu đỏ trên nền gốm đen. Các hoạ sĩ trang trí lưu ý đặc biệt đến yếu tố nét, mảng trong các hình vẽ. Đề tài thay đổi qua các thời kỳ: Thần thoại, duyên dáng, đa tình, lịch sử, 
Gốm cổ Hy Lạp
Qua ba loại hình nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và hội họa của Hy Lạp cổ đại ta có thể thấy rõ đặc điểm đặc trưng nhất của nghệ thuật Hy Lạp đó là một nền nghệ thuật gắn liền với thần thoại, mà thần thoại Hy Lạp vừa giải thích, mô phỏng tự nhiên, xã hội vừa là những trang viết huyền thoại về lịch sử Hy Lạp. Quan niệm thần nhân đồng hình đã dẫn đến đặc điểm lớn cho nghệ thuật Hy Lạp cổ đại. Tính chất tôn giáo, thần thoại bộc lộ ở nội dung, đề tài. Nhưng qua các hình tượng nhân vật các tác giả lại muốn ca ngợi vẻ đẹp của con người, một vẻ đẹp hoàn thiện cả về ngoại hình và nội tâm. Các nghệ sĩ Hy Lạp đã bỏ được công thức chi phối trong nghệ thuật tạo hình buổi ban đầu, những ước lệ tạo hình cơ sở để tiến tới một nền nghệ thuật hiện thực giàu tính nhân văn. Các loại hình nghệ thuật tạo hình đều phát triển và có thành tựu cao, để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm vô giá. Đó là

File đính kèm:

  • docLịch sử mĩ thuật thế giới.doc