Lịch sử lập hiến Việt Nam

Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vấn đề bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa được xây dựng thành một chương riêng trong Hiến pháp. Điều này xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề phòng thủ đất nước. Bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước tồn tại song song trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, có sự gắn bó và tương hỗ lẫn nhau. Hiến pháp năm 1980 xác định đường lối quốc phòng của Nhà nước là xây dựng một nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại trên cơ sở kết hợp xây dựng Tổ quốc với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa (Điều 50); xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân (Điều 51); quy định thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chăm lo công nghiệp quốc phòng, huy động nhân lực, vật lực nhằm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước; tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định (Điều 52).

docx34 trang | Chia sẻ: hoanphung96 | Lượt xem: 927 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Lịch sử lập hiến Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột phạm trù pháp luật quốc tế do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng dựa trên những khái niệm chung về quyền tự nhiên của con người.([6]) Phạm trù quyền dân tộc cơ bản được thế giới thừa nhận một cách rộng rãi và trở thành một trong những phạm trù quan trọng của luật quốc tế hiện đại, một đóng góp lớn của Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ các quyền cơ bản của các dân tộc.
- Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1980 thể chế hoá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội vào một Điều của Hiến pháp (Điều 4). Sự thể chế hoá này thể hiện sự thừa nhận chính thức của Nhà nước về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp cũng quy định: Các tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.
- Hiến pháp còn xác định vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội quan trọng khác như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9), Tổng Công đoàn Việt Nam (Điều 10). Đây cũng là lần đầu tiên vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội này được quy định trong Hiến pháp.
- Với Hiến pháp năm 1980, quan điểm về quyền làm chủ tập thể của Đảng ta đã được thể chế hoá (Điều 3 Hiến pháp).
- Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định chính sách đoàn kết dân tộc của Nhà nước ta: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Nhà nước bảo vệ, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị, chia rẽ dân tộc” (Điều 5).
- Hiến pháp năm 1980 kế tục tư tưởng của Hiến pháp năm 1959 khi nhấn mạnh quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân, Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước khác đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Điểm mới là lần đầu tiên Hiến pháp năm 1980 quy định nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa:“Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” (Điều 12).
Chương II - Chế độ kinh tế, gồm 22 Điều (từ Điều 15 đến Điều 36).
Chương này quy định những vấn đề cơ bản trong lĩnh vực kinh tế như mục đích của chính sách kinh tế, các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các nguyên tắc lãnh đạo nền kinh tế quốc dân. Nếu như Hiến pháp năm 1959 quy định đất đai có thể thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân[7] thì Hiến pháp năm 1980 đã quốc hữu hoá toàn bộ đất đai (Điều 19). Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: Thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động (Điều 18).
Chương III - Văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật, bao gồm 13 Điều (từ Điều 37 đến Điều 49).
Đây là một chương hoàn toàn mới so với các bản Hiến pháp trước đây. Chương này quy định mục tiêu của cách mạng tư tưởng và văn hoá là xây dựng nền văn hoá mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân, xây dựng con người mới có ý thức làm chủ tập thể, yêu lao động, quý trọng của công, có văn hoá, có kiến thức khoa học kỹ thuật, có sức khỏe, yêu nước xã hội chủ nghĩa và có tinh thần quốc tế vô sản (Điều 37). Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo sự phát triển của xã hội Việt Nam (Điều 38). Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và phát triển những giá trị văn hoá và tinh thần của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, chống các tư tưởng phong kiến lạc hậu, tư sản phản động và bài trừ mê tín dị đoan. Chương III còn xác định chính sách về khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật và các công tác thông tin báo chí, xuất bản, thư viện, phát thanh, truyền hình...
Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bao gồm 3 Điều (từ Điều 50 đến Điều 52).
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vấn đề bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa được xây dựng thành một chương riêng trong Hiến pháp. Điều này xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề phòng thủ đất nước. Bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước tồn tại song song trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, có sự gắn bó và tương hỗ lẫn nhau. Hiến pháp năm 1980 xác định đường lối quốc phòng của Nhà nước là xây dựng một nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại trên cơ sở kết hợp xây dựng Tổ quốc với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa (Điều 50); xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân (Điều 51); quy định thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chăm lo công nghiệp quốc phòng, huy động nhân lực, vật lực nhằm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước; tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định (Điều 52).
Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 29 Điều (từ Điều 53 đến Điều 81).
Kế tục và phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 một mặt ghi nhận quyền và nghĩa vụ của công dân đã được quy định trong các bản Hiến pháp trước đây, mặt khác bổ sung thêm một số quyền và nghĩa vụ mới phù hợp với giai đoạn mới của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa như quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội (Điều 56); quyền được khám và chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61), quyền có nhà ở (Điều 62), quyền được học tập không phải trả tiền (Điều 60), quyền của các xã viên hợp tác xã được phụ cấp sinh đẻ (Điều 63). Hiến pháp quy định thêm một số nghĩa vụ mới của công dân: Công dân phải trung thành với Tổ quốc (Điều 76); ngoài bổn phận làm nghĩa vụ quân sự, công dân còn phải tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân; ngoài nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỉ luật lao động, tôn trọng những quy tắc sinh hoạt xã hội, công dân còn phải bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, giữ gìn bí mật nhà nước; ngoài nghĩa vụ đóng thuế, công dân còn phải tham gia lao động công ích. Tuy nhiên, một số quyền mới được bổ sung trong Hiến pháp năm 1980 không phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước nên không có điều kiện vật chất đảm bảo thực hiện.
Chương VI - Quốc hội, bao gồm 16 Điều (từ Điều 82 đến Điều 97).
Kế thừa Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 xác định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hoá-xã hội, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Quốc hội thành lập các cơ quan nhà nước tối cao như bầu ra Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Bộ trưởng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước... (Điều 82 và 83). Như vậy về cơ bản, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội không thay đổi nhưng cơ cấu tổ chức của Quốc hội có sự thay đổi lớn. Nếu theo Hiến pháp năm 1959 cơ quan thường trực của Quốc hội là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì theo Hiến pháp năm 1980 cơ quan thường trực của Quốc hội là Hội đồng Nhà nước - Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 1959, khi Quốc hội họp thì bầu Chủ tịch đoàn để điều khiển cuộc họp (Điều 47), còn theo Hiến pháp năm 1980, Quốc hội bầu ra Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội, bảo đảm việc thi hành nội quy của Quốc hội, giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội, điều hoà phối hợp hoạt động với các uỷ ban của Quốc hội, chứng thực luật và nghị quyết đã được Quốc hội thông qua; thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội.
Như vậy, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội là một thiết chế mới, một cách tổ chức mới của Quốc hội mà trước đó lịch sử lập hiến nước ta chưa biết đến.
Chương VII - Hội đồng Nhà nước, bao gồm 6 Điều (từ Điều 98 đến Điều 103).
Đây là một chương mới so với Hiến pháp năm 1959. Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 98). Hội đồng Nhà nước vừa thực hiện chức năng của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội vừa thực hiện chức năng của Chủ tịch nước. Vì vậy, thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước tương đương với thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và thẩm quyền của Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1959 với những nhiệm vụ và quyền hạn rất lớn (Điều 100).
Trong số các quyền của Hội đồng Nhà nước thì việc quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, các uỷ ban nhà nước; cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ trưởng, các chủ nhiệm Uỷ ban nhà nước; việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược, Hội đồng Nhà nước phải trình Quốc hội phê chuẩn trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội. Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn đã được xác định, tại khoản 21 Điều 100 Hiến pháp năm 1980 còn ghi nhận: “Quốc hội có thể giao cho Hội đồng Nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết”. Thể chế Chủ tịch nước tập thể trong thực tiễn đã thể hiện những ưu điểm và nhược điểm của nó. Ưu điểm của thể chế này là các vấn đề quan trọng của đất nước đều được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số, như vậy sẽ vững vàng hơn so với một người quyết định. Nhược điểm của nó là do mọi vấn đề phải bàn bạc tập thể nên công việc nhiều khi chậm chạp, trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước chưa thật rõ ràng. Giữa hai kỳ họp của Quốc hội thì quyền hạn của Hội đồng Nhà nước rất lớn nhưng trong kỳ họp Quốc hội thì thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước lại hầu như không được thể hiện. Mặt khác, việc Hội đồng Nhà nước được quyền quyết định một số quyền hạn thuộc thẩm quyền Quốc hội đã làm nảy sinh vấn đề liên quan đến yêu cầu tập trung quyền lực, nhất là quyền lập pháp vào Quốc hội. Theo quy định của Hiến pháp  thì chức năng, nhiệm vụ giao cho Hội đồng Nhà nước rất lớn nhưng cơ cấu của thành viên Hội đồng Nhà nước hầu hết gồm những người kiêm nhiệm.([8])
Chương VIII - Hội đồng Bộ trưởng, bao gồm 9 Điều (từ Điều 104 đến Điều 112).
Theo Điều 104 Hiến pháp năm 1980, Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vị trí như Hội đồng Chính phủ trong Hiến pháp năm 1959. Tuy nhiên, Hội đồng Bộ trưởng về tính chất không hoàn toàn giống như Hội đồng Chính phủ. Hội đồng Chính phủ theo quy định của Hiến pháp năm 1959 là "cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa".
Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng Bộ trưởng "là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất". Với quy định này chúng ta thấy tính độc lập của Chính phủ trong quan hệ với Quốc hội bị hạn chế.
Về nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng, Điều 107 Hiến pháp năm 1980 quy định các vấn đề cơ bản sau đây:
- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; trình dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước; lập dự án kế hoạch nhà nước và dự án ngân sách nhà nước trình Quốc hội; tổ chức thực hiện kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước; thống nhất quản lý việc cải tạo, xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân, việc xây dựng và phát triển văn hoá, giáo dục khoa học, kỹ thuật; xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước từ Trung ương đến cơ sở; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng; bảo đảm cho Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương; lãnh đạo Ủy ban nhân dân các cấp; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư không thích đáng của các bộ và các cơ quan khác thuộc hội đồng Bộ trưởng; đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương, đồng thời đề nghị Hội đồng Nhà nước sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị không thích đáng của Ủy ban nhân dân các cấp; quyết định việc phân vạch địa giới của các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh... Về cơ bản, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng theo Hiến pháp năm 1980 giống với nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Chính phủ theo Hiến pháp năm 1959. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1980 bổ sung một số quyền hạn, nhiệm vụ mới phù hợp với nhu cầu của xã hội như tổ chức và lãnh đạo công tác trọng tài nhà nước về kinh tế; tổ chức và lãnh đạo công tác bảo hiểm nhà nước v.v.. So với các Hiến pháp trước thì chế định về Hội đồng Bộ trưởng còn có một điểm mới nữa là quy định về trách nhiệm tập thể của các thành viên Hội đồng Bộ trưởng trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.
Chương IX  - Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, bao gồm 14 Điều (từ Điều 113 đến Điều 126).
Tại chương này, Hiến pháp quy định về phân cấp hành chính ở nước ta, xác định vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Về phân cấp đơn vị hành chính, nước ta có ba cấp hành chính. Đó là tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương; huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường, thị trấn. Khác với Hiến pháp năm 1959 khu tự trị được bãi bỏ (theo Nghị quyết kỳ họp Quốc hội khoá V ngày 27/12/1975) nhưng lập thêm ra đơn vị hành chính đặc khu (tương đương với tỉnh), đơn vị phường ở những thành phố, thị xã (tương đương với xã). Ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Những quy định của Hiến pháp năm 1980 về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được cụ thể hoá bởi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1983. Theo đó, bổ sung vào cơ cấu của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã một cơ quan mới là thường trực Hội đồng nhân dân. Nhiệm kì Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp cũng được nâng lên từ 3 năm lên 5 năm.
Về tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân về cơ bản giống Hiến pháp năm 1959.
Chương X - Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, bao gồm 15 Điều (từ Điều 127 đến Điều 141).
Chương này về cơ bản kế thừa nội dung trong Hiến pháp năm 1959 với các quy định về nhiệm vụ chung của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, về hệ thống các cơ quan Tòa án, chức năng của các cơ quan Tòa án, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án.
Chương XI - Quốc kì, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô.
Chương XII quy định về hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp. Điều 146 của Hiến pháp quy định Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Về thủ tục sửa đổi Hiến pháp hoàn toàn kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1959.
Tóm lại, Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Tuy có nhiều nhược điểm nhưng Hiến pháp năm 1980 là một cái mốc quan trọng trong lịch sử lập hiến của nước ta.
V. Hiến pháp năm 1992
1. Hoàn cảnh ra đời
Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp năm 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản Hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra thời kì đổi mới ở nước ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những sai lầm của Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động, trên cơ sở đó để có những nhận thức mới đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng và văn minh. Với tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, Quốc hội khoá 8, tại kỳ họp thứ 3 ngày 22/12/1988 đã ra Nghị quyết sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1980. Ngày 30/6/1989, kỳ họp thứ V Quốc hội khoá 8 ra Nghị quyết sửa đổi 7 Điều: 57, 116, 118, 122, 123, 125 để xác định thêm quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân của công dân và thành lập thêm thường trực Hội đồng nhân dân trong cơ cấu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Trong kỳ họp này Quốc hội đã ra Nghị quyết thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện đáp ứng yêu cầu của tình hình kinh tế, xã hội mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Ủy ban sửa đổi Hiến pháp được thành lập bao gồm 28 người, do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch. Ủy ban dự thảo Hiến pháp đã họp nhiều phiên để chỉnh lí, bổ sung và thông qua toàn văn dự thảo Hiến pháp sửa đổi.
Cuối năm 1991 đầu năm 1992, Bản dự thảo Hiến pháp lần ba đã được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân và ý kiến của Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng, Dự thảo Hiến pháp lần 4 đã hoàn thành và được trình lên Quốc hội khoá VIII, tại kỳ họp thứ XI xem xét. Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi với những chỉnh lí và bổ sung nhất định, ngày 15 tháng 4 năm 1992 Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp năm 1992 là một quá trình thảo luận dân chủ và chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân về tất cả các vấn đề từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Bản Hiến pháp này là bản Hiến pháp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Đúng như nhận xét của đồng chí Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười, nó là "sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước".([9])
2. Nội dung cơ bản
Hiến pháp năm 1992 gồm Lời nói đầu và 147 Điều chia làm 12 chương.
Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992 về cơ bản kế thừa nội dung Lời nói đầu của các Hiến pháp trước; ghi nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam và xác định những nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới;
Chương I - Chế độ chính trị bao gồm 14 Điều (từ Điều 1 đến Điều 14)
Như Hiến pháp năm 1980, chương này đã xác định những nguyên tắc cơ bản của tổ chức quyền lực chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bao gồm: quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức (Điều 2); nguyên tắc bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam (Điều 4); nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc (Điều 5); nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 6); nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín (Điều 7). Tuy nhiên, khác với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 không dùng thuật ngữ "Nhà nước chuyên chính vô sản" mà dùng thuật ngữ "Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân". Việc thay đổi thuật ngữ này không làm thay đổi bản chất của Nhà nước mà chỉ để làm rõ bản chất "của dân, do dân và vì dân" của Nhà nước ta, phù hợp với chính sách đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp trong xã hội và phù hợp với xu thế của quốc tế và thời đại. Đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của nó là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Theo Hiến pháp năm 1992, Mặt trận có nhiệm vụ phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính q

File đính kèm:

  • docxLich_su_lap_hien_Viet_Nam.docx
Giáo án liên quan