Kĩ năng thực hành phần động vật không xương sống
I. LỜI NÓI ĐẦU:
1. Lý do chọn chuyên đề :
a. Cơ sở lý luận:
Sinh học là một môn khoa học thực nghiệm, bằng những kinh nghiệm, kết quả của nghiên cứu được kiểm nghiệm qua thực tế, từ đó rút ra được những kinh nghiệm, kiến thức của bộ môn. Với việc thực hiện nội dung chương trình sách giáo khoa mới, phần thực hành được tăng cường về thời lượng lẫn kĩ năng, kiến thức, yêu cầu các bài thực hành ngày càng cao. Sử dụng phương pháp mới lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh, thì việc giảng dạy theo phương pháp thực hành là cần thiết. Về phương pháp, kĩ năng thực hành được đặc biệt chú trọng, vì rằng thông qua những kết quả mà học sinh quan sát, thí nghiệm thực hành, các em lĩnh hội được kiến thức một cách chắc chắn, có sáng tạo, đồng thời kiến thức các em tiếp thu được qua các tiết học thực hành kiểm chứng bằng lý thuyết nhờ có việc vận dụng kĩ năng thực hành vào các tiết thực hành. Vì vậy để giúp các em có kĩ năng trong thực hành, đặc biệt là kĩ năng thực hành phần động vật không xương sống nói riêng và động vật nói chung.
m thấy được những điều mới lạ về giới động vật “trổi dậy” tính tò mò, tìm hiểu, khám phá về động vật chủ động tiếp thu tri thức và trở thành nhà nghiên cứu nên có được sự hứng thú học tập. + Có năng lực tư duy, trí thông minh, sáng tạo khi làm thực hành học sinh tự mình quan sát, ghi chép, phán đoán kết quả và tự mình rút ra kết luận buộc các em phải tư duy, suy nghĩ, từ đó phát triển thông minh, óc sáng tạo. + Chính vì vậy, giáo viên phải tổ chức cho học sinh thực hành để các em tự mình khám phá, tìm hiểu về giới động vật nhằm phát triển kĩ năng, kĩ xảo và tạo ra những con người năng động, sáng tạo. + Mỗi một tiết học, một kiểu bài lên lớp đòi hỏi phải có những phương pháp khác nhau, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của bài. Làm sao để phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Đặc biệt hơn nữa là “thực hành nói chung và kĩ năng thực hành phần động vật không xương sống nói riêng” trong chương trình sinh học là một vấn đề rất khó, để dạy thành công một bài thực hành đòi hỏi người giáo viên phải tìm tòi, nghiên cứu phương pháp phù hợp và qua thử nghiệm mới có thể thành công. Tuy nhiên khả năng thành công của mỗi tiết dạy còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Qua thực tế giảng dạy môn sinh học 7 việc thực hiện các tiết thực hành đòi hỏi phải có phương pháp, kĩ năng thực hành, học sinh phải có tính ham mê môn học, có tính tìm tòi và phải có kĩ năng trong thực hành nên việc trao dồi kĩ năng thực hành trong thực hành là cần thiết. + Xuất phát từ những lí do trên, qua quá trình trực tiếp giảng dạy, tích lũy cũng như tham khảo, trao dồi với đồng nghiệp, bản thân tôi xin ghi lại một vài nét có thể coi là chuyên đề, kinh nghiệm để bạn bè, đồng nghiệp cùng tham khảo và đóng góp ý kiến để thực hiện một tiết thực hành có một kĩ năng thực hành thành công theo mong muốn. Mục đích cuối cùng của chúng ta là làm thế nào để học sinh nhận thức và vận dụng tốt kiến thức vào thực hành và có kĩ năng thực hành. 2. Phạm vi chuyên đề: *. Kiến thức môn sinh học rất rộng, vì điều kiện và thời gian nên phạm vi chuyên đề tôi nghiên cứu bộ môn sinh học THCS ở nội dung hẹp. - Phân tích hạn chế của các tiết thực hành động vật không xương sống. - Một số hướng khai thác thực hành động vật không xương sống có kĩ năng thực hành. - Một số chú ý khi thực hiện các tiết thực hành động vật không xương sống. II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: 1. Mô tả tình trạng, sự việc hiện tại: Sinh học là môn khoa học thực nghiệm, luôn mới và rất trừu tượng. Bằng những kinh nghiệm, kết quả của nghiêm cứu được kiểm nghiệm qua thực tế, từ đó rút ra được những kinh nghiệm, kiến thức của bộ môn. Vì vậy việc giảng dạy môn sinh học ở các trường THCS đóng vai trò hết sức quan trọng. Do đó để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn sinh và giúp học sinh có hứng thú học tập, yêu thích bộ môn sinh học thì nhất thiết trong quá trình giảng dạy, mỗi giáo viên cần phải dạy tốt qua từng tiết trên lớp, tạo điều kiện cho học sinh học tốt. *. Tình hình học sinh: + Đa số học sinh rất thích tiết thực hành, khi tự tay mình tiến hành mổ động vật các em có được kĩ năng: Mổ chính xá, thực hiện thao tác nhanh, trình bày mẫu mổ đẹp – khoa học, có niền tin khoa học, nêu được cấu tạo cơ thể động vật vững chắc. + Bên cạnh đó vẫn còn một số học sinh có tính rụt rè, nhút nhát không chịu tham gia tiến hành thực hành mà chỉ quan sát nên tiếp thu tri thức của các em chưa được vững chắc, không có kĩ năng mổ, không biết trình bày mẫu mổ, thực hiện thao tác mổ còn lúng túng khi giáo viên yêu cầu mổ dẫn đến: mổ chưa đạt, thao tác chậm, xác định các hệ cơ quan trên mẫu chưa chính xác, hình vẽ và ghi chú thích hình vẽ chưa rõ ràng. *. Tình hình giáo viên: + Nắm vững phương pháp giảng dạy loại bài thực hành. + Có kĩ năng, kĩ xảo mổ động vật. + Dự giờ đồng nghiệp về phương pháp giảng dạy loại bài thực hành còn hạn chế nên chưa có nhiều kinh nghiệm cũng như chưa nắm bắt được nhiều phương pháp giảng dạy của đồng nghiệp về loại bài thực hành, đặc biệt kĩ năng thực hành động vật không xương sống. + Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn một số giáo viên chưa thật sự quan tâm đến vấn đề này dẫn đến học sinh học tập chưa tốt vì: - Khâu chuẩn bị bài, dụng cụ, đồ dùng học tập chưa tốt. - Học sinh có ý thức học tập yếu ngại tham gia thực hành, còn ỉ lại nhóm trưởng làm việc. - Một số học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên thời gian dành cho công việc học tập rất ít. - Do tác động của nền kinh tế thị trường nên một phần lớn giáo viên chưa thật sự đầu tư chu đáo, chưa nhiệt tình trong công tác giảng dạy của mình, chưa tích cực đổi mới phương pháp dạy học cũng như đầu tư trong các tiết thực hành do mất nhiều thời gian. Vì vậy, trong mỗi tiết học vẫn còn nhiều học sinh thụ động, chờ đón kiến thức áp đặt từ giáo viên hoặc từ học sinh khá, giỏi của lớp. Hoặc ngại thực hiện các thao tác thực hành chỉ chờ vào học sinh khá, giỏi. Nhưng thực hành rất quan trọng trong việc tiếp thu kiến thức tốt nhất nên thực hành như thế nào cho hiệu quả cho tất cả các tiết thực hành nói chung kĩ năng thực hành động vật không xương sống nói riêng để giúp các em thành thạo kĩ năng thực hành đặc biệt “Kĩ năng thực hành phần động vật không xương sống”. Với việc thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học môn sinh học, cấp trung học cơ sở nhiều bài dạy lý thuyết lấy thời lượng các tiết này chuyển sang tiết thực hành, chương trình mới tăng số tiết thực hành so với chương trình cũ. Như vậy, tiết thực hành rất quan trọng trong truyền thụ kiến thức mới hay rèn kĩ năng thực hành. - Tùy từng loại bài thực hành như: *. Thực hành tìm hiểu kiến thức mới chủ yếu giúp cho học sinh biết tự thiết kế một thí nghiệm, thực hành, biết quan sát, nhận xét kết quả, giáo dục tính cẩn thận, tìm tòi, suy luận, từ đó rút ra được những khái niệm, kiến thức mới. *. Thực hành rèn luyện kĩ năng thực hành chủ yếu giúp học sinh chuẩn bị tiêu bản, chuẩn bị mẫu vật cho một tiết thực hành, biết sử dụng thành thạo dụng cụ thực hành, rèn luyện các thao tác thực hành chính xác, biết cách quan sát mẫu vật. *. Thực hành thí nghiệm chứng minh giúp học sinh qua kết quả của thí nghiệm thực hành chứng minh được những khái niệm, nhận định, đã rút ra được bằng cách suy luận, lý thuyết. *. Thực hành củng cố kiến thức đã học bài này được thực hành sau khi học lý thuyết thường tiến hành vào cuối chương, giúp học sinh củng cố được kiến thức đã học trong lý thuyết, tạo cho các em hiểu rõ, ghi nhớ khái niệm một cách chắc chắn. 2. Mô tả nội dung – giải pháp mới: + Để nâng cao chất lượng dạy học thì thầy và trò phải làm như thế nào? Đây là vấn đề quan trọng cần giải quyết. + Thật vậy, muốn dạy tốt để nâng cao chất lượng học tập của học sinh, giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ cho một tiết lên lớp, bên cạnh đó cần phải để cho học sinh thực hành để cho các em khắc sâu kiến thức và phát huy tính sáng tạo đồng thời có kĩ năng thực hành. Vì vậy tôi đưa ra một số nhiệm vụ sau: + Học sinh phải nắm được kiến thức cơ bản toàn diện có hệ thống về giới động vật ở các phương diện: hình dạng, cấu tạo, phân loại, nguồn gốc, sự đa dạng, ý nghĩa thực tiễn. + Biết được vị trí, vai trò của giới động vật đối với con người và tự nhiên để từ đó các em biết bảo vệ động vật có ích. + Có được kĩ năng: Quan sát, giải phẫu, giải thích, nhận biết, phân biệt, phân tích, nhận xét, vẽ hình. + Để hoàn thành nhiệm vụ trên thì giáo viên phải phối hợp các phương pháp giảng dạy kết hợp với phương tiện trực quan, còn học sinh phải có trí nhớ, tư duy trừu tượng, tính tự giác học tập và tự tay mình tiến hành thực hành để khắc sâu kiến thức và phát huy tính sáng tạo. Với chuyên đề “Kĩ năng thực hành phần động vật không xương sống” tôi đã đi sâu nghiên cứu một số bài cụ thể thực hiện chuyên đề. * Đối với các tiết thực hành động vật không xương sống: Rèn luyện kĩ năng thực hành là giúp học sinh chuẩn bị tiêu bản, chuẩn bị mẫu vật cho một tiết thực hành, biết cách sử dụng thành thạo dụng cụ thực hành, rèn luyện các thao tác thực hành chính xác, biết cách quan sát mẫu vật, rèn kĩ năng và phương pháp quan sát động vật không xương sống cỡ nhỏ dưới kính hiểm vi, kính lúp, kĩ năng giải phẫu, quan sát cấu tạo nội quan, vẽ hình. Động vật không xương sống thường nhỏ, nội quan nhỏ khó nhận biết. III. CÁC GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1. Biện pháp chung: + Tuy nhiên đa phần giáo viên chỉ cho học sinh thực hành quan sát hình dạng, di chuyển, cấu tạo trong không thực hiện vì khó quan sát thấy, ngại chuẩn bị dụng cụ, hóa chất, dung dịch sinh lý để xử lý mẫu vì mất thời gian nên tiết thực hành qua loa không nên học sinh có thể ồn trong tiết thực hành, không tạo tính khám phá, nghiên cứu môn học, làm cho tiết học nhàm chán, ảnh hưởng cho các tiết thực hành tiếp theo không gây hứng thú, tìm tòi của học sinh. Vì vậy, để có tiết học theo đúng yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, cần phải phát huy tính cẩn thận, cần cù, chịu khó để có kĩ năng thực hành trong các tiết thực hành nói chung và động vật không xương sống nói riêng. Nên khi thực hành quan sát động vật không xương sống giáo viên cần phải xử lý vật mẫu nhuộm màu để quan sát cấu tạo trong rõ, đầy đủ cấu tạo của các cơ quan bên trong của động vật nguyên sinh, hướng dẫn học sinh kĩ năng quan sát và vẽ hình. + Giáo viên hướng dẫn học sinh kĩ năng vẽ hình, các nét vẽ rõ ràng, dứt khoát, chính xác. Các nét cơ bản cần đậm hơn các nét vẽ chi tiết, không nên vẽ quá nhiều chi tiết rờm rà, lộn xộn, chỉ vẽ những đường nét chính cơ bản. Không nên vẽ màu, bôi đen. Trong trường hợp cần thiết nên dùng các chấm nhỏ tròn thể hiện các chi tiết. Tất cả các bản vẽ phải có số thứ tự, tiêu đề và phải được ghi ở dưới hình vẽ, các chi tiết trong bản vẽ đều phải có ghi chú đầy đủ. Giúp các em có thao tác vẽ nhanh, chính xác, trọng tâm, nắm kiến thức chắc. + Kĩ năng thực hành: Đối với các tiết thực hành giải phẫu động vật không xương sống, đa phần các tiết thực hành học sinh thực hiện các thao tác mổ, sử dụng các dụng cụ mổ chưa phù hợp nên mẫu mổ thường rách nội quan, không quan sát được. + Nên giáo viên hướng dẫn kĩ năng giải phẫu giúp học sinh có kĩ năng giải phẫu là cần thiết. *. Giải phẫu cơ thể động vật không xương sống nhỏ hay các cơ quan bên trong của chúng cần phải có bộ đồ mổ, khi giải phẫu cơ thể nhỏ nên tiến hành dưới kính lúp. Bộ đồ mổ gồm dao nhọn, kéo nhọn đầu, kẹp, dùi nhọn và dùi mũi mác, khăn lau . . . mỗi dụng cụ có một chức năng riêng nên sử dụng đúng mới phát huy được tính hiệu quả trong thực hành. Như dao, kéo dùng để mổ và cắt, kẹp sắt dùng để nâng các chi tiết trong khi mổ và dùng các kim nhọn và kim mũi mác để gỡ các chi tiết trên mẫu mổ. *. Khi giải phẫu tuân theo một quy định để rèn luyện kĩ năng và thao tác thành thạo và chính xác. + Sử dụng theo đúng chức năng của từng loại dụng cụ giải phẫu, không sử dụng tùy tiện. + Khi tiến hành giải phẫu, tác thao tác đều phải chính xác, phù hợp với từng loại dụng cụ, tuyệt đối không xé, gỡ vật mẫu bằng tay. + Trong trường hợp có thể cầm vật mẫu lên tay để cắt các đường cơ bản rồi găm vào bàn mổ ở trong chậu mổ để gỡ tiếp hoặc mổ hoàn toàn trong chậu mổ. Việc gỡ các nội quan nhất thiết phải thực hiện trong nước, luôn ngập nước. + Trong quá trình giải phẫu, gỡ các bộ phận tới đâu dùng ghim nhọn găm chặt vào bàn mổ đến đó. Phải sắp xếp, bố trí tất cả các chi tiết trên bàn mổ theo đúng vị trí, rõ ràng và dễ nhận biết, cần tránh hiện tượng để các cơ quan nằm chồng chéo lên nhau. + Sau khi mổ xong, tất cả các dụng cụ cần được lau sạch cẩn thận, bôi dầu chống gỉ và xếp vào hộp theo trật tự đã qui định. Vì vậy khi thực hành phần động vật không xương sống phải chú ý các kĩ năng thao tác thực hành, sử dụng các dụng cụ giải phẫu đúng giúp học sinh có kĩ năng thực hành, thao tác chính xác. Những yếu tố trên giúp giáo viên có một kiến thức, kĩ năng thực hành tốt trong thực hành, đặc biệt là có kĩ năng trong thực hành động vật không xương sống. + Giáo viên phân tích kết quả thực hành của học sinh, giải đáp các thắc mắc do học sinh nêu ra. Nhận xét về kĩ năng thực hành của học sinh giúp các em có kĩ năng thực hành động vật không xương sống để áp dụng kĩ năng thành thạo trong các tiết thực hành tiếp theo sau: 2. Dẫn chứng các bài thực hành: *. Ví dụ : Bài Thực hành : “Quan sát một số động vật nguyên sinh” + GV : Yêu cầu học sinh quan sát một số động vật nguyên sinh dưới kính hiển vi -> GV hướng dẫn học sinh cách thu thập mẫu vật từ thiên nhiên, cách nuôi cấy mẫu vật, cách làm tiêu bản sống, cách sử dụng kính hiểm vi, các thao tác vẽ hình. Làm thế nào để đạt những yêu cầu trên: GV giúp học sinh xác định môi trường của động vật nguyên sinh ví dụ như trùng roi sống ở môi trường nước ngọt, giàu chất dinh dưỡng hữu cơ như ở cống rãnh, nước đọng . . . hoặc có thể nhân nuôi trong phòng thí nghiệm bằng cách lấy nước ở các thủy vực có trùng roi cho vào lọ thủy sinh rộng có miệng đựng rơm rạ, cỏ tươi cắt thành từng đoạn. Đặt ở chỗ có ánh sáng sau vài ngày trùng roi phát triển. *. Quan sát cấu tạo chung của cơ thể và các hoạt động sống thì quan sát dưới vật kính nhỏ, khi quan sát chi tiết cần chuyển sang vật kính lớn và muốn thấy rõ trùng roi cần nhuộm màu bằng dung dịch iot loãng ( nhỏ 1 giọt loãng vào giọt nước nuôi trên lam kính trước khi đậy lamen ). Để quan sát nhân cần nhuộm trùng roi bằng dung dịch axít axetic. Sử dụng vật mẫu và kĩ thuật nghiên cứu đó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hình thành kĩ năng thực hành giúp học sinh biết cách chuẩn bị vật mẫu thực hành sinh học, biết quan sát, mô tả, nhận biết, xác định vị trí cấu tạo của các cơ quan, biết sử dụng các dụng cụ, thiết bị thí nghiệm. Tạo cho học sinh kĩ năng học tập tự học, rèn được năng lực tư duy, phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp . . . Từ đó tạo cho học sinh có niềm tin khoa học, sẵn sàng áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật thuộc lĩnh vực sinh học vào cuộc sống xây dựng ý thức tự giác và thói quen tích cực. *. Ví dụ : Bài thực hành “Mổ và quan sát tôm sông” *. Thực hành củng cố kiến thức đã học: Bài này được thực hành sau khi học lý thuyết thường tiến hành vào cuối chương, giúp học sinh củng cố được kiến thức đã học trong lý thuyết, tạo cho các em hiểu rõ, ghi nhớ các khái niệm một cách chắc chắn, nhận biết các bộ phận đầy đủ chi tiết. Sau tiết này giúp mổ và quan sát cấu tạo mang, nhận biết gốc chân ngực và các lá mang, một số nội quan như ( hệ tiêu hóa, hệ thần kinh ), rèn kĩ năng mổ động vật không xương sống, biết sử dụng dụng cụ mổ, có thái độ nghiêm túc, cẩn thận trong thực hành. + Giáo viên: Chuẩn bị các dụng cụ, mẫu vật liên quan đến bài thực hành, tiến hành mổ trước, yêu cầu nhóm trưởng mổ trước để coi thời gian. + Học sinh : Chuẩn bị mẫu mổ, các kiến thức có liên quan đến bài thực hành, dụng cụ thực hành nếu có. *. Ví dụ : Bài thực hành củng cố: *. Khi hướng dẫn cách tiến hành thực hành. Giáo viên sử dụng phương pháp giảng giải để thuyết trình về cách tiến hành, hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức đã học ở bài trước để hoàn thành bài thực hành. *. Khi học sinh tiến hành thực hành: Giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm để mổ, quan sát, xác định các hệ cơ quan, hoàn thành phiếu học tập, vẽ hình. *. Khi tổng kết: Giáo viên yêu cầu các nhóm trình bày mẫu mổ, báo cáo kết quả thảo luận, nhận xét, bổ sung, rút ra kiến thức, sau đó giáo viên tổng kết lại kiến thức cho học sinh nắm. *. Khi củng cố bài : Giáo viên sử dụng phương pháp hỏi đáp để củng cố kiến thức cho học sinh đồng thời qua hỏi đáp giáo viên vừa khắc sâu kiến thức vừa kiểm tra khả năng tiếp thu tri thức của học sinh. Giáo viên nêu yêu cầu của tiết thực hành: + Phân chia nhóm thực hành và kiểm tra sự chuẩn bị của các nhóm. + Giáo viên phân công việc cho học sinh. + Yêu cầu học sinh nhận dụng cụ thực hành. + Học sinh nhận nhiệm vụ. + Học sinh nhận dụng cụ thực hành. Tiến trình thực hành: *. Mục tiêu: Học sinh biết cách mổ và thấy được các hệ cơ quan của tôm. + Học sinh mổ và quan sát mang tôm. + Yêu cầu các nhóm tiến hành mổ. + Yêu cầu học sinh sử dụng kính lúp quan sát một chân ngực kèm lá mang: Nhận biết các đôi chân ( chú thích vào hình 23.1 ) *. Mổ và quan sát cấu tạo trong : - Bước 1: Găm con tôm nằm sấp trong khay mổ bằng 4 đinh ghim ( 2 ở gốc râu, 2 ở tấm lái ). - Bước 2 : Dùng kẹp nâng, dung kéo cắt 2 đường AB và A’B’; đến gốc 2 mắt kép thì cắt đường BB’. - Bước 3 : Cắt 2 đường AC và A’C’ xuống phía dưới. - Bước 4 : Đổ nước ngập cơ thể tôm. - Bước 5 : Dùng kẹp khẽ nâng tấm lưng vừa cắt bỏ ra ngoài. - Yêu cầu học sinh nghiên cứu cách mổ tôm sông. - Yêu cầu các nhóm tiến hành. - Giáo viên theo dõi hướng dẫn cho học sinh. + Đổ nước ngập cơ thể tôm. + Dùng kẹp nâng tấm lưng vừa cắt bỏ ra ngoài. - Quan sát mang tôm bằng kính lúp nhận biết các bộ phận. - Yêu cầu học sinh đọc thông tin quan sát cấu tạo cơ quan tiêu hóa bằng kính lúp ( nhận biết các bộ phận và dựa vào H 23.3A ( chú thích vào hình 23.3B ). - Giáo viên nhắc lại đặc điểm : Thực quản ngắn, dạ dày có màu tối, cuối dạ dày có tuyến gan, ruột mảnh, hậu môn ở cuối đuôi tôm. + Ống tiêu hóa : Miệng -> Thực quản -> Dạ dày -> Ruột -> Hậu môn. + Tuyến tiêu hóa : Tuyến gan ( vàng nhạt ). - Giáo viên đi tới các nhóm kiểm tra việc thực hiện của học sinh, hỗ trợ các nhóm yếu sửa chữa sai sót ( nếu có ). + GV: Hướng dẫn cách mổ cơ quan thần kinh: Điền chú thích vào hình 23.3C. Dùng kẹp và kẹp gỡ bỏ toàn bộ nội quan, chuỗi hạch thần kinh màu sẫm sẽ hiện ra, quan sát các bộ phận của cơ quan thần kinh. + Dạng chuỗi hạch, sát bụng. + Gồm 2 hạch não, vòng thần kinh hầu, khối hạch ngực, chuỗi hạch bụng. + Học sinh: + Tiến hành mổ tôm, quan sát cấu tạo trong để xác định các hệ cơ quan. + Vẽ hình mẫu mổ. + Giáo viên: + Quan sát cách tiến hành của học sinh, hướng dẫn, giúp đỡ những thao tác khó. + Uốn nắn những sai sót của học sinh về cách mổ và xác định các hệ cơ quan. + Dựa vào hình vẽ SGK: Xác định cấu tạo các hệ cơ quan của tôm trên mẫu mổ, hoàn thành phiếu học tập. + Hoàn thành tranh câm về cấu tạo trong của tôm. + Vẽ hình mẫu mổ. *. Khi nghiên cứu cấu tạo cơ thể tôm, chú ý tính chất phân đốt là hướng tiến hóa chủ yếu của động vật chân khớp. So sánh cấu tạo cơ thể của giun đốt ( giun đất ) ta thấy cơ thể tôm phân chia thành các phần khác nhau rõ rệt: Đầu, ngực, bụng, mỗi phần mang đặc điểm đặc trưng, những đặc tính thích ứng với đời sống ở nước. *. Qua bài thực hành này học sinh có kĩ năng: Giải phẫu động vật, quan sát, vẽ hình, nhận biết. Trong quá trình mổ các em sẽ gặp một số khó khăn buộc các em phải tìm hướng khắc phục từ đó làm trổi dậy sự hứng thú và tính sáng tạo. + Học sinh vận dụng được kiến thức ở bài thực hành vào bài mới một cách hiệu quả. + Bài thực hành củng cố có tác dụng giúp học sinh khắc sâu kiến thức đã học, có được các kĩ năng; quan sát, nhận biết, vẽ hình, vận dụng, phân tích, tổng hợp, có niềm tin khoa học. IV. KẾT QUẢ: Kĩ năng thực hành phần động vật không xương sống qua những năm giảng dạy tôi rút ra được kết quả như sau: Năm học Sĩ số Thời điểm Giỏi Khá TB Yếu Ghi chú 2011- 2012 Dạy học thông thường lớp 7/1 38 SL % SL % SL % SL % Chất lượng đầu năm 5 13.2% 7 18.4% 24 63.2% 2 5.3% Cuối năm 7 18.4% 10 26.3% 20 52.7% 1 2.6% 2012 – 2013: Dạy học theo kĩ năng lớp 7/2 39 Chất lượng đầu năm 7 17.9% 14 35.9% 17 43.6% 1 2.6% Cuối năm 10 25.6% 18 46.2% 11 28.2% 2013 – 2014: Dạy học theo kĩ năng lớp 7/3 36 Chất lượng đầu năm 9 25% 15 41.7% 12 33.3% Cuối năm 12 33.3% 18 50% 6 16.7% V. KẾT LUẬN : 1. Tóm lược giải pháp: - Qua quan sát học sinh tiến hành thực hành, điều tra phỏng vấn và căn cứ vào kết quả kiểm tra tôi nhận thấy tiết dạy thực hành làm cho học sinh nắm bài kỹ hơn, nhớ lâu hơn. Khi thực hành các em có được hứng thú học tập làm trổi dậy ở các em tính tò mò, khám phá từ đó phát huy tính sáng tạo và có được kĩ năng quan sát, nhận biết, giải phẫu, phân biệt, vẽ hình, vận dụng kĩ năng thực hành động vật không xương sống nói riêng và động vật nói chung để đáp ứng được mục tiêu đào tạo của ngành giáo dục cũng đã từng khẳng định vai trò của công tác thực hành “. . . học đi đôi với hành . . .”, thông qua công tác thực
File đính kèm:
- Chuyen de sinh 7 2014 2015.doc