Đề tài Tìm hiểu những khó khăn sai sót trong dạy và học toán điển hình lớp 4

Rút ra quy tắc: Muốn tìm số trung bình cộng của nhiều số, ta tính tổng của các số đó rồi chia tổng của các số đó cho số các số hạng.

2. Phương pháp hướng dẫn giải toán.

Khả năng giải toán của học sinh còn phụ thuộc vào phương pháp hướng dẫn giải toán của giáo viên. Sự hướng dẫn của giáo viên phải kích thích suy nghĩ, tư duy của học sinh. Nếu kết hợp với hình minh hoạ trực qua thì sự tiếp thu của học sinh càng hiệu quả. Học sinh tự mình chiếm lĩnh tri thức, tự mình tìm ra lời giải của bài toán.

 

doc28 trang | Chia sẻ: rimokato | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu những khó khăn sai sót trong dạy và học toán điển hình lớp 4, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Hỏi em bao 
nhiêu tuổi, chị bao nhiêu tuổi?
Học sinh khá có thể làm được bài ngay sau khi đọc bài toán. Nhưng khi hỏi vì sao em biết đây là bài toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó thì nhiều em lúng túng. Vậy hai số đó là hai số nào? ( Tuổi của chị và em ). Từ kến có nghĩa là gì? ( Cho biết hiệu của hai số). Ta có bài toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số.
2. Cơ sở của phương pháp dạy học toán.
Đối với học sinh tiểu học, học toán đã khó, học giải toán có lời văn càng khó hơn. Bởi vì những bài toán có lời văn là những bài toán yêu cầu phải sự tư duy trìu tượng. Học sinh phải suy nghĩ phân tích phán đoán để tìm ra cách giải. Chính vì vậy những bài toán có lời văn thường được coi là toán đố. Nhiều học sinh có thể làm thành thạo các bài toán về số và bốn phép tính nhưng khi đứng trước bài toán có lời văn thì lại lúng túng không biết làm như thế nào. Vì vậy việc giúp học sinh làm tốt đượcc các bài toán có lời văn nói chung và toán điển hình lớp 4 nói riêng đòi hỏi người giáo viên phải có một phương pháp dạy học toán soa cho phát huy được óc sáng tạo, tính độc lạp sáng tạo của học sinh.
Đối với học sinh tiểu học, do tư duy trìu tương logic còn kém phát triển, tư duy trực quan hình tượng chiếm ưu thế. Bởi vậy người giáo viên phải biến những nội dung trìu tượng, khó hiểu của bài toán thành những cái trực quan cụ thể( hình vẽ, sơ đồ) học sinh sẽ dễ hiểu và dễ dàng tìm ra lời giải của bài toán.
Ví dụ: Một nhóm học sinh có12 bạn, trong đó số bạn trai bằng một nửa số bạn gái. Hỏi nhóm đó có mấy bạn trai, mấy bạn gái?
Bình thường với đề toán này yêu cầu học sinh đọc đề rồi giải thì học sinh rất khó giải. Hoặc làm sai, vì khi đọc đề học sinh chỉ quan tâm đến 12 và số ban trai bằng một nửa số bạn gái nên có thể làm nhầm sang bài toán “ tìm một phần mấy của một số” Do đó có thể giải như sau: 
 Số bại gái có là:
12 x 2 = 6 ( bạn)
 Số bạn trai có là:
12- 6 = 6 ( bạn)
Đáp số: 6 bạn gái.
 6 bạn trai.
( đây là cách giải bài toán sai)
Nhưng giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng sơ đồ. Khi đó học sinh dựa vào trực quan có thể tìm ra ngay cách giải:
Ta có sơ đồ:
Số bạn trai:	 12 bạn
Số bạn gái:
Như vậy dựa vào sơ đồ học sinh thấy ngay rằng 12 bạn gồm 3 phần bằng nhau. Số bạn trai là 1 phần, số bạn gái là 2 phần. Biết số bạn trai thì sẽ tìm được số bạn gái. Do đó có thể giải như sau:
 Theo sơ đồ tổng số phần bằng nhau là:
1 + 2 = 3( Phần)
 Số bạn trai là:
12 x 3 = 4( bạn)
 Số bạn gái là:
12 - 4 = 8( Bạn)
Đáp số: 4 bạn trai
 8 bạn gái
Ngoài ra đối với dạy và học toán điển hình lớp 4, chúng ta phải làm cho học sinh nắm vững được từng loại toán điển hình và những khái niệm cụ thể tương ứng với mỗi loại toán điển hình đó. ở mỗi loại toán điển hình đó chúng ta cần có phương pháp ngắn gọn, cụ thể nhất để hướng dẫn học sinh, chỉ ra cách trình bày cho học sinh dễ hiểu nhất về nội dung bài ( chú ý luôn sử dụng đồ dùng trực quan để tóm tắt bài toán)
Chương II. Nội dung chương trình- Thực trạng về việc dạy và học toán điển hình hiện nay.
I. Nội dung chương trình.
Học sinh kớp 4 được học trong 35 tuần, mỗi tuần 5 tiết về nội dung sau:
- Số tự nhiên – Bốm phép tính với số tự nhiên.
-Bảng đơn vị đo khối lượng.
-Dấu hiệu chia hết cho 2,3,5,9.
- Phân số – Các phép tính về phân số.
-Tỉ số – Một số bài toán kiên quan đến tỉ số.
Như vậy qua cấu trúc chương trình môn toán 4, các loại toán điển hình nằm xen kẽ 4 phép tính với số tự nhiên là:
* Tìm số trung bình cộng.
* Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. 
Loại toán điển hình nằm trong phần phân số tỉ số và các bài toán về tỉ số.
- Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó.
-Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó.
Nhìn chung các bài học về toán điển hình được trình bày trong chương trình là hợp lí, khoa học. Mỗi loại bài đều có lí thuyết và thực hành, củng cố khắc sâu kiến thức. Nhưng mỗi loại toán điển hình đều có những khái niệm, cách làm hoàn toàn khác nhau. Đối với các em học sinh trong một năm học mà phải nhớ nhiều khái niệm với qui tắc như vậy nên các em thường nhầm lẫn các loại bài này . Việc phân loại các loại bài và khắc sâu kiến thức tìm ra khác biệt để nhận dạng các bài toán điển hình theo tôi là một điều quan trọng trong dạy học toán.
II. Thực trạng về việc dạy và học toán điển hình hiện nay.
1. Giáo viên dạy học.
Hiện nay việc đổi nới phương pháp đã được phổ biến rộng rãi ở các trường tiểu học. Đặc trưng chủ yếu của phương pháp mới là coi học sinh là trung tâm của quá trình dạy học, trong đó giáo viên chỉ là người tổ chức và hướng dẫn hoạt động học của học sinh, giúp học sinh huy đọng vốn kiến thức và kinh nghiệm của bản thân để tự chiếm lĩnh tri thức mới, vận dụng những tri thức đó vào thực tế cuộc sống.
Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy tôi thấy nhiều giáo viên vẫn áp dụng cách dạy
 cũ. Nội dung kiến thức mới trong các loại toán điển hinh trình báy sẵn trong sách giáo khoa được giáo viên đem ra diễn giảng còn học sinh chủ yếu là ghi nhớ thông tin và làm theo mẫu. Như vậy cả giáo viên và học sinh đều phụ thuộc vào tài liệu có sẵn. Sự phụ thuộc có thể thấy với nội dung bài học có sẵn mà nhiều giáo viên không biết phải dạy như thế nào, luôn luôn phải dựa vào sách hướng dẫn. Mặt khác hầu hết giáo viên lên lớp không sử dụng đồ dùng trực quan ( sơ đồ, vẽ hình tóm tắt) hoặc sử dụng không hiệu quả, khả năng hướng dẫn bài toán kém khiến cho các en tiếp thu kiến thức rất khó khăn. Do đó giáo viên làm việc một cách máy móc, ít có nhu cầu và cơ hội để phát huy khả năng sáng tạo của nghề dạy học.
2. Học sinh học.
Từ việc dạy học theo kiểu áp đặt của thầy mà học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, các qui tắc, các công thức, ... mà thầy đưa ra học sinh có nhiệm vụ phải ghi nhớ. Chính vì vậy học sinh nắm kiến thức không vững, không sâu, không hiểu được bản chất của vấn đề, chỉ biết áp dụng rập khuôn máy móc. Do đó những bài có cấu trúc hơi khác đi một chút là học sinh không làm được hoặc là sai. Mặt khác kiến thức do thầy áp đặt không phải do học sinh chiếm lĩnh nên rất chóng quên.
Ví dụ: Ngay sau khi thầy giảng bài “ Tìm số trung bình cộng” học sinh có thể áp dụng quy tắc giải theo mẫu được. Nhưng vài hôm sau, khi chuyển sang dạng toán khác giáo viên hỏi lại dạng tìm số trung bình cộng học sinh lại quên không biết làm như thế nào.
Mặt khác dạng toán điển hình trong chương trình cung cáp khá gần nhau nên học sinh dễ nhầm lẫn hoặc khó phân biệt dẫn đến giải sai.
Hơn thế nữa học toán điển hình đòi hỏi phải có các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, so sánh,... mà học sinh hầu như chỉ biết làm theo, nói theo giáo viên hoặc các bài mẫu trong sách, do đó năng lực của số đông học sinh không có điều kiện bộc lộ và phát triển đầy đủ.
Thực trạng nêu trên đã cản trở mạnh mẽ đến việc dạy và học, làm cho việc dạy và học toán điển hình có nhiều khó khăn sai sót. Chính vì vậy mà tôi đi sâu nghiên cứu 
đề tài này.
Chương III. Tìm hiểu những khó khăn sai sót trong việc dạy và học toán điển hình lớp 4.
Trong nội dung chương trình sách giáo khoa toán 4, mảng toán điển hình được chia thành 4 dạng ( loại) rõ rệt. Mỗi dạng bài đều có đặc điểm riêng hoàn toàn khác biệt. Cá nhân tôi ở các dạng toán điển hình đó không dạng nào có thể bỏ qua hoặc không qua trọng. Nhưng điều kiện hạn chế tôi chỉ tập chung nghiên cức một số dạng bài tôi cho là quan trọng và nổi bật nhất. ở mỗi dạng bài tôi đi sâu nghiên cứu các phần sau:
-Kiến thức cơ bản sách giáo khoa mà giáo viên cần truyền đạt đến học sinh.
- Phân loại các bài toán trong sách giáo khoa và tìm hiểu cách làm của học sinh ở dạng cơ bản đó.
- Phán đoán nguyên nhân sai sót, từ đó đánh giá việc dạy và học. Dự kiến biện pháp khắc phục.
 Loại thứ nhất
 Tìm số trung bình cộng.
A. Kiến thức cơ bản.
Muốn tìm trung bình cộng của nhiều số, ta tính tổng của các số đó, rồi chia tổng cho số các số hạng. 
Qui tắc tổng quát:
Số trung bình cộng = ( tổng của các số hạng) : số các số hạng.
B. Những sai sót điển hình.
1. Các bài tập giải trực tiếp nhờ công thức.
Bài toán 1. Tìm số trung bình cộng của các số sau:
 a, 42 và 52 b, 36;42 và 57 
 Bài giải 1
 a, ( 42+52): 2 = 84: 2 = 42
 b, ( 36 + 42 +57 ) : 2 = 135: 2= 67( dư 1)
Nhận xét: a, Tính tổng sai nên sai kết quả.
 b, Không nắm được thế nào là số các số hạng.
 Bài giải 2:
 b, 42+52: 2 = 94: 2 = 47
 a, 36 + 42 +57 : 3 =135: 3=45
Nhật xét: Sai cách trình bày.
Bài toán 2:
Bốn em Mai, Hoa, Hưng, Thịnh lần lượt cân nặng là 36kg, 38kg, 40kg, 34kg. Hỏi trung bình mỗi em cân nặng bao nhiêu kg ?
 Bài giải:
 Một bạn cân nặng số kg là: 
 36+38+40+34=148( kg)
 Bốn bạn cân nặng số kg là:
 148: 4=37( kg)
 Trung bình một bạn cân nặng số kg là:
 37: 4= 9(kg).
 Đáp số: 9 kg
Nhận xét: Chưa hiểu khái niệm “ trung bình”, bài làm sai, đáp số sai.
2. Các bài toán chưa giải được trức tiếp nhờ công thức.
Bài toán 3:
Một công ti chuyển máy bơm bằng ô tô. Lần đầu có 3 ô tô, mỗi ô tô chở được 16 máy. Lần sau có 5 ô tô, mỗi ô tô chở được 24 máy. Hỏi trung bình mỗi ô tô chở được bao nhiêu máy bơm?
 Bài giải 1:
 Trung bình mỗi ô tô chở được số máy bơm là:
 ( 16 + 24 ) : 2 = 20( máy )
 Đáp số: 20 máy.
Nhận xét: Học sinh không đọc kĩ đề, áp dụng rập khuôn công thức. Bài làm sai. đáp số sai
 Bài giải 2:
 3 ô tô chở được số máy là.
 16 x 3 = 48( máy )
 5 ô tô chở được số máy là:
 24 x 5 = 120( máy )
 Trung bình mỗi ô tô chở được số máy bơm là:
 ( 48 + 120) : 2 = 84( máy )
 Đáp số: 84 máy.
Nhận xét: Học sinh nhầm lẫn khi tính trung bình, thấy tổng của hai số hạng 48 và 120 nên đem chia cho 2 dẫn đến bài làm sai.
Bài toán 4:
Số trung bình cộng của hái số là 28. Biết một trong hai số đó bằng 30, tìm số kia.
 Bài giải 1:
 Số kia là:
 (28+30):2= 29
 Đáp số: 29
Nhận xét: Học sinh không hiểu bài vẫn áp dụng cách tính trung bình cộng. Bài giải sai.
 Bài giải 2:
 Số cần tìm là: 29
 Vì: (30+29):2=28.
Nhận xét: Học sinh không nắm được cách làm. Tính mò ra đáp số.
C. Nguyên nhân sai sót.
Với bài tìm số trung bình cộng tôi phân ra thành ba kiểu bài( 3 mức độ) như trên. Sau khi xen xét tìm hiểu những cách làm của học sinh tôi thấy học sinh sai sót bởi các nguyên nhân sau:
- Các en chưa nắm được quy tắc tìm số trung bình cộng. Chưa hiểu rõ thế nào là số hạng và số các số hạng( Bài toán 1, bài giải 1) chưa hiểu rõ bản chất khái niệm trung bình cộng.
- Kiến thức bị áp đặt nên các em làm việc một cách máy móc, rập khuôn theo công thức:
Số trung bình cộng = Tổng các số hạng: số các số hạng nên dẫn đến sai sót ở bài toán 3: 
 Trung bình mỗi ô tô chở được số máy bơm là:
 ( 48 +120) : 2 = 84( máy )
Các em cứ nghĩ là tổng của 2 số hạng 48 và 120 nên các em đem chia cho 2. Trong khi đó ( 48 + 120) là tổng số máy do 8 ô tô chuyển.
Vì kiến thức bị áp đặt nên các en không có khả năng sáng tạo( bài toán 4). Đây là kiểu bài muốn giải được phải suy luận từ công thức đã biết:
 VD: TBC của 2 số = Tổng của 2 số : 2
Suy ra: Tổng của 2 số = TBC của 2 số x 2.
Số hạng chưa biết = Tổng – số hạng đã biết.
Nhưng đại đa số các em không làm được, nhiều em cứ máy móc rập khuôn theo quy tắc( Bài toán 4-Bài giải 1), nhiều em khá hơn lần mò ra kết quả nhưng không nắm được cách là( Bài toán 4-bài giải 2)
Các nguyên nhân sai sót trên đây cũng là một phần do giáo viên. Khi giảng dạy chỉ thông tin một chiều nên không nắm bắt được khả năng nắm kiến thức của học sinh đến đâu. Khi dạy không kết hợp đồ dùng trực quan để phát huy tư duy trực quan hình tượng của học sinh.
D. Biện pháp khắc phục:
1. Hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức mới.
Đây là một vấn đề vô cùng quan trọng trong quá trinh giảng dạy bài mới của giáo viên. Thay thế việc giáo viên đem tri thức mới đến cho học sinh( dạy theo kiểu áp đặt) bằng việc dẫn dắt học sinh tìm đến với tri thức mới. Có như vậy học sinh nắm kiến thức mới vững, mới phát huy khả năng độc lập sáng tạo của học sinh, hạn chế đuợc nhiều sai sót. Theo tôi, đối với tiết này khi giảng bài mới giáo viên có thể dẫn dắt như sau:
Bài toán 1:
Rót vào can thứ nhất 6l dầu, rót vào can thứ hai 4l dầu. Hỏi nếu số lít dầu đó rót đều vào 2 can thì mỗi can có bao nhiêu lít dầu?
Phần dẫn dắt của giáo viên
-yêu cầu học sinh đọc kĩ bài toán.
H: Số lít dầu rót vào can thứ nhất và can thứ hai có đều nhau không?( Không bằng nhau )
Rót vào can thứ nhất 6l dầu, rót vào can thứ hai 4l dầu.
H: Số lít dầu rót vào hai can là bao nhiêu?
( 6+4=10 lít)
GV đánh ? vào sơ đồ thứ nhất.
Nếu mỗi can đựng số lítdầu như nhau thì mỗi can đựng được bao nhiêu lít dầu? (Gv vẽ sơ đồ 2)
Gọi một học sinh lên trình bày bài giải
Phần ghi bảng 
Bài giải
Tổng số lít dầu rót vào hai can là:
6+4 = 10 (lít)
Số lít dầu rót đều vào mỗi can là:
10 : 2 = 5( lít)
Đáp số : 5 lít
Giáo viên vừa hướng dẫn vừa thao tác trên sơ đồ. Học sinh vừa được nghe sự hướng dẫn của cô giáo vừa được theo dõi trực quan trên sơ đồ nên có thể hiểu ngay được bài giải. Sau khi học sinh trình bày lời giải như trên, giáo viên giới thiệu: rót vào can thứ nhất 6l dầu, rót vào can thứ hai 4l dầu. Ta nói rằng trung bình mỗi can đựng được 5l dầu.
Số 10 là số trung bình cộng của hai số 6 và 4.
 (6+4) : 2 = 10.
Bài toán 2:
Số học sinh của ba lớp lần lượt là 25 học sinh, 27 học sinh, 32 học sinh. Hỏi trung bình mỗi lớp có bao nhiêu học sinh?
Giáo viên cũng dẫn dắt học sinh và thao tác trên sơ đồ theo đường lối trên.
 Học sinh sẽ dễ dàng tìm ra lời giải của bài toán.
 Bài giải:
 Tổng số học sinh của ba lớp là:
 25 + 27 + 32 = 84 (học sinh)
 Trung bình mỗi lớp có là:
 84: 3 = 28 ( học sinh)
 Đáp số : 28 học sinh.
Giáo viên giới thiệu: Số 28 là trung bình cộng của ba số 25, 27,và32.
(25+ 27+ 32) : 3 = 28
Chốt lại: Khi tìm trung bình cộng của nhiều số, ta giả sử là các số đó đều như nhau.
Rút ra quy tắc: Muốn tìm số trung bình cộng của nhiều số, ta tính tổng của các số đó rồi chia tổng của các số đó cho số các số hạng.
2. Phương pháp hướng dẫn giải toán.
Khả năng giải toán của học sinh còn phụ thuộc vào phương pháp hướng dẫn giải toán của giáo viên. Sự hướng dẫn của giáo viên phải kích thích suy nghĩ, tư duy của học sinh. Nếu kết hợp với hình minh hoạ trực qua thì sự tiếp thu của học sinh càng hiệu quả. Học sinh tự mình chiếm lĩnh tri thức, tự mình tìm ra lời giải của bài toán.
Chẳng hạn như: Bài toán 3( ở trên), giáo viên có thể hưỡng dẫn học sinh làm như sau:
a, Yêu cầu học sinh đọc kĩ đề.
b, Tóm tắt bài toán:
 Bài toán cho biết gì? cho biết : Lần 1 có 3 ô tô, mỗi ô tô chở được 16 máy
 Lần 2, có 5 ô tô, mỗi ô tô chở được 24 máy
Bài toán hỏi gì? Trung bình mỗi ô tô chở được ? máy
Giáo viên minh hoạ:
*Hướng dẫn học sinh giải:
H: Muốn biét trung bình mỗi ô tô chở được bao nhiêu máy ta cần biết gì? ( Biết số ô tô và số máy chở được)
H: Muốn biết số ô tô chở máy ta là như thế nào?( tính cộng)
 3 + 5 = 8(ô tô)
Muốn biết số máy được chuyển đi ta cần biết gì? ( cần phải biết số máy chuyển đi của lần 1 và lần 2)
H: Muốn tìm trung bình 1 ô tô chở được bao nhiêu máy ta là như thế nào? ( Lấy tổng số máy chia cho tổng số ô tô)
 *Học sinh trình bày bài giải:
 Lần 1 chuyển được số máy là:
 3 x 16 = 48 ( máy)
 Lần 2 chuyển được số máy là:
 5 x 24 = 120 ( máy)
 Trung bình mỗi ô tô chở được số máy là:
 ( 48 + 120) : 2 = 21 ( máy)
 Đáp số: 21 máy
3. Khắc phục kiểu bài: Biết số trung bình công và một số. Tìm số kia?
Đây là một kiểu bài khó đòi hỏi học sinh phải biết suy luận. Vậy trước khi cho học sinh làm kiểu bài này thì giáo viên nên cho học sinh làm bài tập sau:
 Tìm x:
 ( 9 + x ): 2 =8
 ( x+ 30) : 2 = 20....
Khi làm được bài tập này học sinh sẽ hiểu ra cách giải của bài toán 4 ( ở trên)
- Hoặc giáo viên hướng dẫn suy luận từ công thức:
Tổng của hai số : 2 = TBC của hai số
Suy ra: Tổng của hai số = TBC x 2
Số hạng chưa biết = tổng hai số – số hạng đã biết.
Ví dụ: bài toán 4: hướn dẫn học sinh suy luận như sau:
? Muốn tìm trung bình cộng của hai số ta làm như thế nào? ( Lấy tổng hai số chia cho 2)
Theo bài ra ta có : tổng hai số : 2 =28
Vậy tổng hai số bằng bao nhiêu? ( Tổng hai số = 28 x 2 = 56 ) 
Hai số có tổng là 56 mà biết một số bằng 30 vậy số kia bằng bao nhiêu? ( Số kia bằng 56 - 30 = 26 ) Sau khi hướng dẫn như trên học sinh có thể dễ dàng tìm ra cách giải:
 Tổng của hai số là:
 28 x 2 = 56
 Số kia là:
 56 – 30 = 26
 Đáp số : 26
* Hướng dẫn học sinh giải bằng sơ đồ.
Giáo viên có thể tóm tắt bài toán cho học sinh theo sơ đồ sau:
 Dựa và sơ đồ trên học sinh cũng dễ dàng tìm ra lời giải bài toán.
 Trên đây là một số biện pháp tôi thường dùng để khắc phục sai sót khi dạy và học dạng toán này. Kết quả là học sinh năm vững bài hơn, hiểu sâu hơn và tỉ lệ sai sót đã giảm hẳn.
 Loại thứ hai
 Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó
A. kiến thức cơ bản.
- Coi số bé ( hoặc số lớn) gồm các phần bằng nhau, xét xem số lớn( hoặc số bé) gồm mấy phần như thế.
- Tính tổng số phần bằng nhau của hai số cần tìm.
- Lấy tổng đã cho chia cho tổng số phần đó để tìm giá trị 1 phần.
- Tìm số lớn, số bé.
B. Những sai sót điển hình:
1. Bài toán cho biết tổng hai số và số lớn gấp một số lần số bé.
Bài toán 1:
Một sợi dây dài 28 m được cắt thành hai đoạn, đoạn thứ nhất dài gấp ba lần đoạn thứ hai. Hỏi mỗi đoạn dài bao nhiêu mét?
Tóm tắt:
Sợi dây 1:	 28 m
Sợi dây 2:	
 Bài giải 1:
 Số phần bằng nhau là:
 3+1 = 4 ( phần)
 Sợi dây thứ hai dài là:
 28 – 4 = 24 (m)
 Sợi dây thứ nhất dài là:
 28 : 4 = 7 (m)
 Đáp số : 7 m.
Nhận xét: Học sinh không năm được cách làm, đáp số sai, thiếu đáp số.
 Bài giải 2:
 Bằng phần nhau là: 3 m.
 Đoạn thứ hai dài là: 3 m 
 Đoạn thứ nhất dài là: 28 m 
 Đáp số : 28 m.
Nhận xét: Học sinh không hiểu bài . Bài làm sai.
Bài toán 2:
Một nông trường có 352 con trâu và bò. Số bò của nông trường nhiều gấp 3 lần số trâu. Tinh số trâu bò của nông trường đó?
 Bài giải1:
Tóm tắt: 
 Một nông trường có số trâu là:
 352 : 2 = 117 ( trâu)
 Một trại có số bò là:
 117 x 3 = 351 ( bò)
 Đáp số: 117 trâu
 351 bò
Nhận xét: Học sinh không biết tóm tắt, không biết tìm số phần bằng nhau, câu trả lời sai, phép tinh sai, sai danh số.
 Bài giải 2:
Tóm tắt: 	con trâu 352
 con bò
 Số phần bằng nhau là:
 3 + 1 = 4 ( phần )
 Có số con trâu là: 352 : 4 = 88 ( con trâu )
 Có số con bò là: 88 x 4 = 352 ( con bò )
 Đáp số: 352 con
Nhận xét: Tóm tắt sai, nhầm lẫn khi tính số bò. Đáp số sai, thiếu.
2. Bài toán cho biết tổng hai số và số bé bằng một phần mấy số lớn.
Bài toán 3:
Quyển truyện có 60 trang, số trang bạn Thuận đã đọc bằng số trang chưa đọc. Tính số trang bạn Thuận đã đọc và chưa đọc của quyển truyện đó ?
 Bài giải 1:
Coi số trang đã đọc là một phần thì quyển truyện có số phần là: 3 phần
 Số trang đã đọc là: 1 phần
Số trang chưa đọc là: 3 phần.
Đáp số: 3 phần
Nhận xét: Học sinh không biết cách làm. Bài làm sai.
 Bài giải 2:
 Coi số trang đã đọc là một phần thì quyển truyện có số phần là: 2 + 1 = 3 (phần)
 Số trang đã đọc là:
 60 : 3 = 20( trang )
 Số trang chưa đọc là:
 20 x 2 = 40( trang )
 Đáp số: 20 trang, 40 trang
Nhận xét: Hiểu sai về tỉ số. Đáp số sai.
 Bài toán 4: giải bài toán dựa vào sơ đồ sau:
Gạo nếp:
Gạo tẻ:	48 kg
 Bài giải 1:
 Gạo nếp có số kg là:
 1 + 5 = 6 (kg)
 Gạo tẻ có số kg là:
 48 : 6 = 8 ( kg)
 Đáp số: 8 kg
Nhận xét: Nhầm lẫn khi tinh số gạo nếp là số phần bằng nhau, số gạo tẻ là giá trin một phần. đáp số thiếu.
 Bài giải 2:
 Số phần bằng nhau là:
 1 + 5 = 6 ( phần)
 Gạo nếp có số kg là:
 48 : 6 = 8 (kg)
 Gạo tẻ có số kg là:
 8 x 6 = 48 (kg)
 Đáp số: 48 kg
Nhận xét: Làm sai khi tính số gạo tẻ. Đáp số sai, thiếu.
C. Nguyên nhân sai sót:
Qua việc tìm hiểu sai sót tring các bài làm của học sinh và quá trinh trực tiếp giảng dạy tôi nhận thấy: Sở dĩ có những sai sót trên đay là do các nguyên nhân sau:
1, Học sinh không hiểu bài, không nắm được phương pháp chung để giải bài toán này nên thường làm linh tinh. Ngay cả đối với bài toán 1 và bài toán 3( nêu ở trên), trong vở bài tập toán của học sinh đã có phần tóm tắtvà câu trả lời sẵn mà học sinh không làm được. điều đó chứng tỏ trong quá trình dạy bài mới giáo viên chỉ mải me thuyết trình, chưa quan tâm đến học sinh.
2, Học sinh không biết tóm tắt bằng sơ đồ( Bài toán 2 và 3), không biết giải bài toán 

File đính kèm:

  • docSKKN toan diuen hinh lop 4.doc