Bài thu hoạch Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên - Module THCS 5: Nâng cao năng lực hiệu biết và xây dựng môi trường giáo dục của giáo viên
* Môi trường học tập ở trường
- Giáo dục nhà trường là hoạt động giáo dục trong các trường lớp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo mục đích, nội dung, phương pháp có chọn lọc trên cơ sở khoa học và thực tiễn nhất định. Giáo dục nhà trường được tiến hành có tổ chức, luôn luôn tác động trực tiếp, có hệ thống đến sự hình thành và phát triển toàn diện của nhân cách. Thông qua giáo dục nhà trường, mỗi cá nhân được bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, kiến thức khoa học, kĩ năng thực hành cần thiết, tương ứng với yêu cầu của các bậc học, cấp học phù hợp với trình độ phát triển của xã hội trong từng giai đoạn.
- So với gia đình, nhà trường là một môi trường giáo dục rộng lớn hơn, phong phú, hấp dẫn hơn đối với thế hệ trẻ. Trong nhà trường, trẻ được giao lưu với bạn bè cùng lứa tuổi ở địa phương, cộng đồng, được tham gia vào nhiều hoạt động mang tính xã hội, giúp cho quá trình xã hội hóa cá nhân phong phú, toàn diện hơn.
- Nhà trường là một thiết chế xã hội chuyên biệt thực hiện chức năng cơ bản là tái sản xuất sức lao động, phát triển nhân cách theo hướng duy trì, phát triển xã hội. Nhà trường có chức năng hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ thông qua hoạt động dạy học, giáo dục. Tri thức trong nhà trường là những kinh nghiệm của nhân loại đã được chọn lọc và tích lũy. Nhà trường là tổ chức chuyên biệt có chức năng truyền thụ toàn bộ kinh nghiệm lịch sử của nhân loại cho thế hệ trẻ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi nhằm hình thành và phát triển mô hình nhân cách lí tưởng của xã hội đặt ra.
- Giáo dục nhà trường có sự thống nhất về mục đích, mục tiêu cụ thể, được thực hiện bởi đội ngũ các nhà sư phạm được đào tạo và bồi dưỡng chu đáo, tiến hành giáo dục theo một chương trình, nội dung, phương pháp sư phạm nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách toàn diện, hướng tới sự thành đạt của con người.
- Ngày nay, giáo dục nhà trường luôn gắn liền với môi trường sống và môi trường tự nhiên, với các cơ sở sản xuất nhằm phát huy nội lực, lôi cuốn sự tham gia của các lực lượng xã hội vào giáo dục học đường, mặt khác giúp cho nội dung giáo dục gắn với đời sống sản xuất xã hội. Nhà trường có chức năng chuyển giao văn hóa giúp cho mỗi HS hòa nhập với cộng đồng và trở thành tác nhân chuyển giao nền văn hoá cho thế hệ sau, nhằm duy trì bản sắc văn hóa của dân tộc. Ngày nay, mỗi cá nhân không chỉ tiếp thu tri thức từ nhà trường mà còn tiếp nhận thông tin qua các kênh như sách, báo, mạng internet.
ại song song “vừa tính trẻ con, vừa tính người lớn” ở lứa tuổi này. Mặt khác, ở những em cùng độ tuổi lại có sự khác biệt về mức độ phát triển các khía cạnh khác nhau của tính người lớn. Sự khác nhau đó do hoàn cảnh sống, do những hoạt động khác nhau của các em. 3. Môi trường học tập *Một số nghiên cứu về môi trường học tập: - Nhiều nhà tâm lí học Mỹ với các công trình nghiên cứu đã chỉ ra những ảnh hưởng rất quan trọng của môi trường đến sự hình thành nhân cách cá nhân. Các nhà tâm lí giáo dục học đều thừa nhận vai trò quan trọng của giáo dục và đã đề cập đến vấn đề nghiên cứu, xây dựng môi trường với mục đích có ảnh hưởng tốt đến dạy học và giáo dục nhân cách thế hệ trẻ. - V. Paplov nghiên cứu sự hình thành phản xạ có điều kiện trong môi trường được kiểm soát chặt chẽ, con vật (con chó) hoàn toàn thụ động. B.F.skinnơ nghiên cứu sự hình thành phản xạ tạo tác động môi trường gần với thực tế hơnHai tác giả Denomme và Madeleine Roy đã dựng nên mô hình sư phạm tương tác. Trong mô hình đó, người dạy - người học - tri thức được chuyển thành người dạy - người học - moi trường. *Khái niệm môi trường học tập: - Môi trường học tập là các yếu tố có tác động đến quá trình học tập của HS bao gồm: + Môi trường vật chất: Là không gian diễn ra quá trình dạy học gồm có đồ dùng dạy học như bảng, bàn ghế, sách vở, nhiệt độ ánh sáng, âm thanh, không khí... + Môi trường tinh thần: Là mối quan hệ giữa GV với HS, HS với HS, giữa nhà trường- gia đình - xã hội... Các yếu tố tâm lí như động cơ, nhu cầu, hứng thú, tính tích cực học tập của HS và phong cách, phương pháp giảng dạy của GV trong môi trường nhóm, lớp. + Môi trường học tập rất đa dạng, cần được tạo ra ở nhà trường, gia đình, xã hội. Môi trường sư phạm là tập hợp những con người, phương tiện đảm bảo cho việc học tập đạt kết quả tốt. Môi trường sư phạm là nội dung cơ bản của môi trường nhà trường. + Môi trường học tập theo truyền thống: Nhà trường là môi trường đơn độc, tĩnh lặng và trật tự. Bầu không khí này là kết quả của áp lực theo định nghĩa hẹp của nền giáo dục chính quy. + Trường học đổi mới có cơ cấu tổ chức hoàn toàn trái ngược với phong cách truyền thống. Chúng thường được mở rộng hơn, ồn ào hơn và đôi khi như những trung tâm với các hoạt động. Các trường học như thế thường là kết quả của cả hai sự thay đổi: Định nghĩa trường học và cách hiểu mới về điều kiện môi trường để củng cố việc học. 4. Phân loại môi trường học tập theo địa bàn * Môi trường học tập ở trường - Giáo dục nhà trường là hoạt động giáo dục trong các trường lớp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo mục đích, nội dung, phương pháp có chọn lọc trên cơ sở khoa học và thực tiễn nhất định. Giáo dục nhà trường được tiến hành có tổ chức, luôn luôn tác động trực tiếp, có hệ thống đến sự hình thành và phát triển toàn diện của nhân cách. Thông qua giáo dục nhà trường, mỗi cá nhân được bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, kiến thức khoa học, kĩ năng thực hành cần thiết, tương ứng với yêu cầu của các bậc học, cấp học phù hợp với trình độ phát triển của xã hội trong từng giai đoạn. - So với gia đình, nhà trường là một môi trường giáo dục rộng lớn hơn, phong phú, hấp dẫn hơn đối với thế hệ trẻ. Trong nhà trường, trẻ được giao lưu với bạn bè cùng lứa tuổi ở địa phương, cộng đồng, được tham gia vào nhiều hoạt động mang tính xã hội, giúp cho quá trình xã hội hóa cá nhân phong phú, toàn diện hơn. - Nhà trường là một thiết chế xã hội chuyên biệt thực hiện chức năng cơ bản là tái sản xuất sức lao động, phát triển nhân cách theo hướng duy trì, phát triển xã hội. Nhà trường có chức năng hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ thông qua hoạt động dạy học, giáo dục. Tri thức trong nhà trường là những kinh nghiệm của nhân loại đã được chọn lọc và tích lũy. Nhà trường là tổ chức chuyên biệt có chức năng truyền thụ toàn bộ kinh nghiệm lịch sử của nhân loại cho thế hệ trẻ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi nhằm hình thành và phát triển mô hình nhân cách lí tưởng của xã hội đặt ra. - Giáo dục nhà trường có sự thống nhất về mục đích, mục tiêu cụ thể, được thực hiện bởi đội ngũ các nhà sư phạm được đào tạo và bồi dưỡng chu đáo, tiến hành giáo dục theo một chương trình, nội dung, phương pháp sư phạm nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách toàn diện, hướng tới sự thành đạt của con người. - Ngày nay, giáo dục nhà trường luôn gắn liền với môi trường sống và môi trường tự nhiên, với các cơ sở sản xuất nhằm phát huy nội lực, lôi cuốn sự tham gia của các lực lượng xã hội vào giáo dục học đường, mặt khác giúp cho nội dung giáo dục gắn với đời sống sản xuất xã hội. Nhà trường có chức năng chuyển giao văn hóa giúp cho mỗi HS hòa nhập với cộng đồng và trở thành tác nhân chuyển giao nền văn hoá cho thế hệ sau, nhằm duy trì bản sắc văn hóa của dân tộc. Ngày nay, mỗi cá nhân không chỉ tiếp thu tri thức từ nhà trường mà còn tiếp nhận thông tin qua các kênh như sách, báo, mạng internet... - Giáo dục nhà trường phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục gia đình và xã hội thì mới đạt được mục tiêu chung về giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ. Điều quan trọng nhất là phải có sự thống nhất về định hướng giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội. * Môi trường gia đình - Ở lứa tuổi này, địa vị của các em ở trong gia đình đã thay đổi, các em được gia đình thừa nhận như là một thanh viên tích cực của gia đình, được cha mẹ, anh chị giao cho những nhiệm vụ cụ thể như: chăm sóc các em nhỏ khi cha mẹ đi vắng, nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, chăn nuôi gia súc... - Điều quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với các em là đã được tham gia bàn bạc một số công việc của gia đình, về những việc của cha mẹ, anh chị, bảo vệ uy tín của gia đình hơn các em HS tiểu học. Những sự thay đổi đó đã động viên, kích thích các em hoạt động tích cực, độc lập, tự chủ. Ý nghĩa của giáo dục gia đình: - Gia đình là một đơn vị xã hội, hình thức tổ chức quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân, dựa trên hôn nhân và quan hệ huyết thống. - Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và là môi trường giáo dục suốt đời đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Cha mẹ là người thầy giáo, là nhà sư phạm đầu tiên giáo dục cho con cái mình những phẩm chất nhân cách cơ bản. - Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên số đông gia đình không thể trực tiếp giáo dục con cái phát triển về mọi mặt: tri thức, văn hoá, kĩ thuật nghề nghiệp của xã hội hiện đại hoặc ngoại ngữ hay nghệ thuật... Để thực hiện những điều đó đã có những cơ quan tổ chức chuyên môn. Song, giáo dục cho trẻ về mặt đạo đức, thói quen lao động. - Giáo dục gia đình có những mặt mạnh, tích cực là mang tính xúc cảm cao, gắn bó với quan hệ ruột thịt, máu mủ nên có khả năng cảm hoá rất lớn. Giáo dục gia đình cũng mang tính cá biệt rõ rệt dựa trên cơ sở huyết thống: yêu thương sâu sắc, lâu dài, bền vững và cũng rất linh hoạt, thiết thực trên cơ sở nhu cầu hứng thú của cá nhân. Mặc dù vậy, giáo dục gia đình không thể thay thế hoàn toàn giáo dục của nhà trường. Một số sai lầm trong giáo dục gia đình: Chiều chuộng, yêu thương con là một bản tính tự nhiên của cha mẹ, là nguồn vui, hạnh phúc của gia đình, nhưng không nên nuông chiều quá mức. Tức là đáp ứng, thỏa mãn mọi nhu cầu của trẻ dẫn đến việc hình thành những thói xấu như vị kỉ, ỷ lại, kiêu ngạo, đua đòi... Thường xuyên đánh mắng thô bạo sẽ làm cho quan hệ giữa bố mẹ và con cái không có sự gần gũi, tạo nên sự cách biệt vì sợ hãi. Trẻ em sẽ tránh những trận đánh mắng thô bạo khi biết mình phạm khuyết điểm bằng cách nói dối hoặc ngoan cố một cách có ý thức. Thả nổi tự do là sai lầm khá phổ biến đối với các bậc cha mẹ bận rộn với công việc, không còn thời gian quan tâm và giáo dục con cái, phó thác cho nhà trường hoặc nơi trông trẻ. Tác hại đầu tiên là không theo dõi được khả năng phát triển trí lực của con cái để có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, dẫn đến việc trẻ học yếu, từ đó chán học. Nóng lạnh thất thường, kỳ vọng quá cao thể hiện thái độ và cách cư xử của cha mẹ với con cái, lúc thì vỗ về chiều chuộng hết mức, lức thì đánh mắng thô bạo tuỳ theo tâm trạng buồn vui của họ chứ không phải theo phương pháp giáo dục phù hợp với các tình huống cụ thể. Một số nguyên tắc trong việc xây dựng môi trường giáo dục gia đình: Tạo không khí gia đình êm ấm, hoà thuận. Nghiêm khắc và khoan dung, độ lượng. Thống nhất mục đích giáo dục theo mô hình lí tưởng xã hội. Giáo dục trẻ ở trong gia đình chỉ đạt kết quả tốt đẹp nếu như tất cả mọi thành viên trong gia đình (ông bà, bố mẹ, người lớn...) đều tác động theo định hướng thống nhất vào một mục đích chung nhằm hình thành và phát triển ở trẻ những phẩm chất, năng lực, thói quen, hành vi chuẩn mực của người công dân chân chính. Uy quyền của bố mẹ trong giáo dục gia đình Tôn trọng nhân cách của trẻ Tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động Giáo dục gia đình sẽ không có ý nghĩa và tác dụng nếu chỉ tập trung vào các phương pháp giải thích, diễn giảng, đối thoại, đàm thoại, nêu gương. Điều quan trọng là các bậc cha mẹ phải tổ chức môi trường cho trẻ được hoạt động và giao lưu. Hoạt động - giao lưu là con đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách. Mọi hoạt động dù đơn giản nhưng các bậc cha mẹ cũng cần hướng dẫn cẩn thận, nêu rõ lợi ích trước mắt, lâu dài trong đới sống con người. Ở mức độ cao hơn, các bậc cha mẹ nên và cần chú ý tổ chức môi trường giáo dục gia đình sao cho hợp lí nhằm đưa các em vào các hoạt động phát triển cả đức, trí, thể, mĩ, lao động... phù hợp với lứa tuổi. *Môi trường xã hội: - Giáo dục xã hội là hoạt động của các tổ chức, các nhóm xã hội có chức năng giáo dục theo quy định của pháp luật hoặc các chương trình giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng. Giáo dục xã hội tác động đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ thường qua hai hình thức: tự phát và tự giác. Những ảnh hưởng tự phát bao gồm các yếu tố tích cực và tiêu cực của đời sống xã hội vô cùng phức tạp do cá nhân tự lựa chọn theo nhu cầu, hứng thú, trình độ tự giáo dục của mình. Những ảnh hưởng tự giác là những tổ hợp tác động trực tiếp hay gián tiếp có hướng đích, có nội dung, phương pháp bằng nhiều hình thức của các tổ chức, cơ quan, đoàn thể xã hội. - Đối với thanh thiếu niên, HS thì tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Đội Thiếu niên Tiền phong ở trong nhà trường và địa phương là tổ chức thu hút các em thường xuyên sinh hoạt nhằm thoả mãn các nhu cầu, hứng thú theo đặc điểm của lứa tuổi. - Môi trường giáo mục xã hội hiện đại không còn hạn chế trong một địa phương hay trong một quốc gia mà đã mở rộng ra toàn thế giới, như các phương tiện thông tin. Trong môi trường xã hội, mỗi nhóm, mỗi tổ chức, mỗi quốc gia đều có những mục đích, yêu cầu, nội dung, phương thức tiến hành giáo dục riêng biệt. Đây là vấn đề phức tạp của môi trường xã hội, nhà nước cần có những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm tập hợp, quản lí các chủ thể, phương tiện tham gia giáo dục xã hội hoạt động theo những định hướng lành mạnh, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam. - Giáo dục của xã hội phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục gia đình và nhà trường, góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo con người theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Để phát huy tính tích cực của giáo dục xã hội, các tổ chức, cơ quan đoàn thể xã hội trước hết phải thực hiện chức năng cơ bản, chủ yếu của mình, góp phần làm cho môi trường xã hội trong sạch, đời sống văn hóa vật chất tinh phần phong phú, lành mạnh. II. Ảnh hưởng của môi trường đến phương pháp học tập Việc học tập ở trường THCS là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ. Ở các lớp dưới, trẻ học tập các hệ thống, các sự kiện và hiện tượng, hiểu những mối quan hệ cụ thể và đơn giản giữa các sự kiện và hiện tượng đó. Ở trường THCS, việc học tập của các em phức tạp hơn. Các em chuyển sang nghiên cứu có hệ thống những cơ sở của các khoa học, các em học nhiều môn học hơn... Mỗi môn học gồm những khái niệm, những quy luật được sắp xếp thành một hệ thống tương đối sâu sắc. Điều đó đòi hỏi các em phải tự giác và độc lập cao. Ở đa số thiếu niên, nội dung khái niệm “học tập" đã được mở rộng; ở nhiều em đã có yếu tố tự học, có hứng thú bền vững đối với môn học, say mê học tập. Tuy nhiên, tính tò mò, ham hiểu biết nhiều có thể khiến hứng thú của các em bị phân tâm và không bền vững, có thể hình thành thái độ dễ dãi, không nghiêm túc đối với các lĩnh vực khác trong cuộc sống, vì vậy, môi trường và phương pháp học tập có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Môi trường là điều kiện để người học sử dụng những phương pháp học tập thích hợp. Môi trường nhóm lớp, phương pháp giảng dạy của GV, quan hệ ứng xử của GV đối với HS là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới phương pháp học tập của HS THCS. Thực tế dạy học đã chứng minh rằng, nếu quan hệ giữa người dạy và người học đạt được trong điều kiện tốt đẹp, quan hệ ảnh hưởng sư phạm, dân chủ thì sẽ trở thành yếu tố thúc đẩy hoat động dạy học diễn ra thuận lợi. Cụ thể: Khi GV say mê giảng dạy, có trách nhiệm cao với HS, gợi mở và dẫn đường cho HS, tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi HS... thì hứng thú học tập của HS được nâng cao rõ rệt, tạo nên một môi trường học tập tốt. GV là người chủ động tạo ra và điều khiển mối quan hệ giữa thầy và trò, dùng ảnh hưởng của mối quan hệ đó để xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp giữa cá nhân với cá nhân HS, giữa cá nhân với nhóm và giữa các nhóm với cả lớp. Trong các giờ lên lớp hay hoạt động tập thể, GV cần quan tâm đến hoạt động của cá nhân với cá nhân, cá nhân với nhóm HS nhằm tạo ra mối quan hệ chia sẻ, cộng đồng hợp tác giữa HS với HS trong môi trường nhóm lớp; giúp HS có có hội bày tỏ kiến thức, kĩ năng, thái độ trong môi trường nhóm lớp. Ảnh hưởng của môi trường đến kết quả học tập: Môi trường học tập của HS THCS có sự tham gia của nhiều tác nhân: GV, người học, gia đình, cơ sở vật chất, yếu tố quản lí của nhà trường. GV là người quyết định sự hợp tác gắn bó giữa thầy và trò, giữa trò và trò, là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục học lập ở HS. Hình thức bên ngoài, đời sống nội tâm, phương pháp dạy học, kĩ năng giao tiếp, phong cách sống... của GV có tác động mạnh mẽ đến tâm lí HS. Khi bài giảng của GV được HS hưởng ứng, ủng hộ có nghĩa là GV đang ảnh hưởng tích cực đến môi trường học tập của HS. Năng lực sư phạm, trình độ chuyên môn của GV, quan hệ ứng xử của GV đối với HS là yếu tố quyết định chất lượng dạy học, là nhân tố tạo nên kết quả học tập ở người học. HS và tính tích cực học tập trong môi trường nhóm lớp: Tất cả mọi hoạt động trong các nhà trường đều nhằm mục đích phát triển người học, người học đuợc coi là yếu tố trung tâm. Việc xây dựng môi trường học tập cho HS THCS cũng dựa vào HS và hoạt động của HS để khai thác mặt giá trị và cảm xúc trong học tập và giao tiếp. Vì vậy, cần thiết phải tạo ra môi trường học tập tự giác, tích cực, chủ động của HS trong hoạt động nhóm lớp nhằm góp phần nâng cao kết quả học tập. Chính thành tích học tập của lớp, của nhóm sẽ góp phần thúc đẩy thành tích học tập của mỗi cá nhân HS trong nhóm, lớp. Cán bộ quản lí: Nhận thức và hành động của cán bộ quân lí là “cốt lõi" để tạo nên sự thân thiện giữa các thành viên trong nhà trường. Trong mọi quan hệ, người cán bộ quản lí phải dân chủ, minh bạch, công khai. Giữa cán bộ quản lí, GV, HS phải thực sự tôn trọng lẫn nhau, quan hệ chia sẻ, cộng đồng trách nhiệm. Không thể có môi trường học tập tốt nếu trong nhà trường các mối quan hệ thiếu dân chủ, bất bình đẳng; hiệu trưởng thiếu tôn trọng GV, GV không đồng tình với hiệu trưởng hoặc người trên quyền luôn luôn tạo áp lực với nhân viên dưới quyền... Hình ảnh các thầy là hình ảnh lí tưởng mà các thế hệ học trò học tập và làm theo. Chính tấm gương lao động của các thầy, cô là bài học cho lớp lớp thế hệ HS, góp phần tạo nên thành tích của nhà trường. Cơ sở vật chất: Môi trường học tập của HS giới hạn trong một không gian nhất định, đó là trường học. Mọi hoạt động của HS diễn ra trong phạm vi không gian lớp học với các yếu tố: bàn ghế, ánh sáng, âm thanh cùng với các phương tiện phục vụ dạy và học, các thiết bị thực hành... Mỗi trường THCS đều có sự khác nhau nhất định về cơ sở vật chất tùy vào nguồn lực kinh tế của nhà trường và địa phương. Nhìn chung, các nhà trường THCS hiện nay đều phải hướng tới tiêu chuẩn tối thiểu về điều kiện cơ sở vật chất, đó là điều kiện cần và đủ để nâng cao chất lượng và đảm bảo chất lượng. Một môi trường học tập tốt trước hết phải đảm bảo các điều kiện cơ sở vật chất tổi thiểu. Ngược lại, cơ sở vật chất thiếu thốn sẽ gây ra khó khăn về mọi mặt cho hoạt động học tập của HS, làm giảm sút kết quả học tập của HS. Phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội để giáo dục HS Nội dung phối hợp: Việc liên kết, phối hợp giữa môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội nhằm thực hiện mục đích phát triển nhân cách công dân được coi là một nguyên tắc quan trọng. Việc liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục nhằm đảm bảo sự thống nhất về nhận thức cũng như cách thức hành động để hiện thực hóa mục tiêu quá trình phát triển nhân cách; tránh sự tách rời, mâu thuẫn, vô hiệu hoá lẫn nhau gây nên tâm trạng nghi ngờ, hoang mang, dao động đối với cá nhân trong việc lựa chọn, tiếp thu các giá trị tốt đẹp. Gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội liên kết, phối hợp thống nhất mục đích, mục tiêu giáo dục thể hiện ở những nội dung cơ bản nhằm phát triển toàn diện các mặt đức, trí, thể, mĩ, lao động... Mọi môi trường đều có một ưu thế trong việc thực hiện các nội dung giáo dục. Gia đình có ưu thế đối với việc giáo dục định hướng nghề nghiệp, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, thói quen lao động chân tay, quan hệ ứng xử... Nhà trường có ưu thế trong việc giáo dục toàn diện, đặc biệt là tri thức văn hóa; các chuẩn mực đạo đức, ý thức công dân... bằng các phương pháp, phương tiện hiện đại nhằm thúc đẩy nhanh quá trình phát triển nhân cách. Các đoàn thể xã hội bằng các hình thức tổ chức hoạt động xã hội ngoài giờ lên lớp giúp các em mở rộng kiến thức, gắn tri thức với thực tiễn, chủ trương, chính sách chung của Nhà nước, của địa phương về các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Những yêu cầu để thực hiện tốt việc phối hợp: Đối với gia đình Hoạt động tích cực trong tổ chức hội cha mẹ nhà trường nhằm góp phần xây dựng cơ sở vật chất, tinh thần, thực hiện sự nghiệp xã hội hoá giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà trường nâng cao chất lương giáo dưỡng và giáo dục. Những cuộc họp cha mẹ HS được tổ chức theo khối, theo lớp do GV chủ nhiệm tổ chức đầu năm học hoặc từng học kì... yêu cầu các bậc cha me cần đi đầy đủ để nắm vững mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp giáo dục HS, tạo sự thống nhất giữa nhà trường với gia đình trong quá trình giáo dục HS. Duy trì thường xuyên, đều đặn mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình bằng sổ liên lạc, phiếu đánh giá, điện thoại để gia đình biết được kết quả học tập, rèn luyện và những ưu - nhược điểm của con em mình. Ngược lại, nhà trường cũng nắm bắt được tình hình học tập, sinh hoạt của HS ngoài giờ lên lớp. Tất cả những nhận xét, đánh giá về phía nhà trường cũng như gia đình cần chính xác, thận trọng, nhấn mạnh đến ưu điểm, tiến bộ là chủ yếu, không nên chỉ tập trung nhấn mạnh vào những nhược điểm, yếu kém. Nếu trẻ có những sai phạm nghiêm trọng thì các bậc cha mẹ và nhà trường cần gặp nhau trực tiếp nhằm tìm đúng nguyên nhân và các biện pháp giáo dục phù hợp. Cha mẹ không nên che giấu những nhược điểm của con cái trong học tập, sinh hoạt ở gia đình, địa phương đối với nhà trường, dẫn đến những hiện tượng một số em ở trường được khen thưởng là HS giỏi, tiên tiến nhưng ở địa phương và gia đình còn yếu kém về nhiều mặt. Gia đình cũng phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo", bảo vệ uy tín, danh dự cho thầy cô giáo, tránh những lời nói, thái độ, hành vi coi thường thầy cô giáo trước mặt các em. Đối với nhà trường: Cần phát huy vai trò trung tâm trong việc liên lạc, phối hợp giáo dục. Nhà trường chủ động phổ biến nội dung, mục đích giáo dục đến các tổ chức xã hội của địa phương như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ... nhằm định hướng tác động thống nhất đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Thực hiện
File đính kèm:
- bai_thu_hoach_boi_duong_thuong_xuyen_giao_vien_module_thcs_5.doc