Văn mẫu 9 - Một số bài văn phân tích thơ hay

SANG THU – HỮU THỈNH

Đúng vậy, mùa thu – mùa đẹp nhất trong năm – đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca. Nếu như văn học trung đại có Nguyễn Khuyến với ba bài thơ thu nổi tiếng, văn học cận đại có Xuân Diệu với “Đây mùa thu tới”, Lưu Trọng Lư với “Tiếng thu” thì văn học hiện đại cũng có Hữu Thỉnh với bài “Sang thu”. Bằng cảm nhận tinh tế và những hình ảnh giàu sức biểu cảm, bài thơ đã thể hiện những biến chuyển của đất trời và tâm hồn con người từ cuối hạ sang đầu thu.

 “Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se”

Khổ thơ, và cả bài thơ, được mở ra bằng một chữ “bỗng”, gợi nên cảm giác bất ngờ, đột ngột, đầy ngỡ ngàng của tác giả khi nhận thấy những dấu hiệu báo mùa thu tới. Thơ ca tự cổ chí kim đã viết rất nhiều về những dấu hiệu ấy, từ sắc vàng hoa cúc cho tới lá khô rải thảm, ngô đồng nhất diệp lạc

 

doc24 trang | Chia sẻ: xuannguyen98 | Lượt xem: 746 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Văn mẫu 9 - Một số bài văn phân tích thơ hay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 đó, con người sẽ trưởng thành hơn, sâu sắc và thâm trầm hơn, vững vàng hơn trước những tác động của ngoại cảnh. Điều đó đã giải thích vì sao khi nhận thấy mùa thu, nhà thơ không reo lên “Thu đã về !” mà chỉ cảm nhận rồi mơ hồ tự hỏi “Hình như thu đã về”. 
“Đứng tuổi” cũng là lúc đã qua thời thanh niên sôi nổi bồng bột để chợt nhận ra rằng sao thời gian trôi qua thật nhanh, bỗng chốc mà đã nửa đời người, thấy đời mình cũng đã “sang thu”. Đó cũng là tâm trạng của tác giả - một người lính đã trải qua bao đạn bom, khói lửa chiến trường trước khi được cảm nhận mùa thu thanh bình, được chứng kiến hòa bình độc lập hôm nay. 
Như vậy sự “dềnh dàng” của sông và “vội vã” của chim trong khổ thứ hai cũng là để chỉ sự thay đổi của con người lúc thu sang nữa. Thu không chỉ tới trong thiên nhiên đất trời mà cả trong suy nghĩ, trong tâm tưởng mỗi người. Khổ thơ thứ ba đã hoàn chỉnh ý thơ của cả bài và gợi ra nhiều suy ngẫm về triết lí mà tác giả muốn gửi gắm tới độc giả. 
Có ai từng nói : “Thơ là người thư ký chân thành của trái tim”. Quả vậy, bài thơ “Sang thu” đã thể hiện những chuyển biến của thiên nhiên đất trời lẫn trong tâm hồn con người từ cuối hạ sang đầu thu. Hữu Thỉnh không chỉ mang tới những cảm nhận tinh tế, sáng tạo, những hình ảnh đẹp và giàu sức gợi cảm mà còn làm dậy lên trong ta tình yêu đối với thiên nhiên, với làng quê thôn xóm và rộng hơn nữa là cảnh thanh bình trên đất nước. Nhà thơ còn muốn gửi gắm một thông điệp về cuộc sống. Sau những thử thách, gian lao của cuộc đời, con người sẽ trưởng thành hơn, điềm tĩnh hơn trước những tác động của cuộc sống.
MÙA XUÂN NHO NHỎ - THANH HẢI
Mùa xuân là để tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các nhà thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc:
“Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai”
Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:
“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.” (Chế Lan Viên)
Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân trong thơ của TH là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được nhà thơ viết không lâu trước khi qua đời.
Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống. Mở đầu bài thơ, TH đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà tươi đẹp:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chim mà vang trời”
“Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế mộng mơ.Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một bông hoa tím biếc”. Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của TH mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế. 
Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ “mọc” lên đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Những từ ngữ cảm thán “ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà thơ. 
Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng:
“Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm? Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế.
Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Cả dân tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương  và náo nhiệt:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Bằng cách sử dụng từ láy “hối hả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến cho câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. 
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Chặng đường lịch sử của đất nước qua bốn ngàn năm trường tồn đã trải qua biết bao thăng trầm, với bao nhiêu là “vất vả và gian lao”. So sánh đất nước với vì sao sáng, nhà thơ đã thể hiện niềm tự hào đối với đất nước và dân tộc. Ngôi sao sáng đã trở thành vẻ đẹp lộng lẫy trên lá cờ VIệt Nam, trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp ngời sáng của con người và đất nước Việt Nam. Đoạn thơ thể hiện ý chí vươn lên không ngừng của con người và dân tộc Việt Nam.
Trong không khí tưng bừng của đất nước vào xuân, nhà thơ cảm nhận được một mùa xuân tươi trẻ, rạo rực trỗi dậy trong tâm hồn. Đó là mùa xuân của lòng người, mùa xuân của sức sống tươi trẻ, mùa xuân của sự cống hiến và hòa nhập:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Nhịp thơ dồn dập và điệp từ “ta làm” diễn tả rõ nét khát vọng cống hiến của nhà thơ. Nhà thơ muốn làm một con chim, muốn làm một nhành hoa thắm trong vườn hoa xuân để dâng tiếng hót tha thiết, để tỏa hương sắc tô điểm cho mùa xuân đất nước. “Nốt trầm” là nốt nhạc tạo nên sự lắng đọng sâu xa trong một bản nhạc. Từ khát vọng hòa nhập, nhà thơ thể hiện rõ hơn khát vọng cống hiến của mình ở những câu thơ tiếp theo:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
“Mùa xuân nho nhỏ” là cách nói ẩn dụ đầy sáng tạo của nhà thơ. Mỗi con người đều có thể góp một phần công sức của mình như “một mùa xuân nho nhỏ” để tô hương thêm sắc cho quê hương đất nước. “Dâng” là một hành động cống hiến, cho đi mà không dòi hỏi sự đền đáp. Phép đảo ngữ nhằm nhấn mạnh khát vọng cống hiến chân thành của nhà thơ, như nhà thơ Tố Hữu đã khẳng định:
“Lẽ nào cho vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhân riêng mình.”
Điệp từ “dù là” được điệp lại hai lần thể hiện rõ sự tự tin, bất chấp thời gian và tuổi tác của nhà thơ. Đây là lời kêu gọi mọi người cùng chung vai gánh vác công việc xây dựng và phát triển đất nước, để đất nước có thể vững vàng mà tiếp tục “đi lên phía trước”.
Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương nhà thơ ban tặng cho đất nước và dân tộc, như một sự hiến dâng cuối cùng cho quê hương đất nước:
“Mùa xuân-ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”
Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, TH muốn hát lại hai làn điệu dân ca quen thuộc của quê hương xứ Huế. Đây cũng là cách để nhà thơ thể hiện tình yêu quê hương, nguồn cội, mở rộng lòng mình để yêu mến đất nước dân tộc.
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết theo thể thơ năm tiếng, với cấu trúc gồm bảy khổ, mỗi khổ từ bốn đến sáu câu. Những hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, biện pháp nhân hóa, điệp ngữ và những từ ngữ tượng hình được sử dụng thành công đã tạo nên nét đặc sắc của bài thơ. Qua đó, ta có thể cảm nhận được cái thi vị trong hồn thơ Thanh Hải.
TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH – PHẠM TIẾN DUẬT
Trong những năm tháng gay go, quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ  cứu nước, từ tuyến đường Trường Sơn đầy bom rơi đạn nổ, nhà thơ Phạm Tuyến Duật đồng thời cũng là anh bộ đội đã viết những bài thơ ca ngợi  người lính trên chiến trường với một phong cách thơ riêng biệt, độc đáo. Thơ của anh đã được đánh giá cao.
Hình tượng thơ gắn liền với cái đẹp, vẻ chau chuốt sự kì vĩ đi cùng năm tháng đó chính là hình ảnh những chiếc xe không kính Bình thường, những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp. ấy thế mà tác giả đã lấy hình tượng đó làm cảm hứng xuyên suốt của bài thơ. Hình tượng độc đáo nhưng hợp lý này đã có tác dụng gây ấn tượng mạnh, là cơ sở để làm nổi bật phẩm chất dũng cảm, sự lạc quan và quyết tâm dành chiến thắng của anh lính lái xe thời chống Mĩ.
Hình tượng những chiếc “xe không kính” đã gợi lên những nguy hiểm cận kề. Những “ bom giật, bom rung” làm vỡ kính xe. Sự hi sinh, cái chết đã ở đâu đó, rất gần những người lính. Lời thơ bình dị:
“ Không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Hình tượng những chiếc xe không kính cũng đã góp phần cụ thể hóa những khó khăn gian khổ mà anh bộ đội lái xe phải chịu đựng:
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Không có kính, ừ thì ướt áo,
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”.
Hoàn cảnh chiến trường khó khăn, cái chết là những thử thách lớn với những người lái xe trên con đường Trường Sơn khói lửa. Điệp ngữ “không có kính” ở đầu các khổ thơ vừa có tác dụng nhấn mạnh cho ta cảm nhận được gian khổ, hiểm nguy sự khốc liệt của hiện thực cuộc chiến đối với người lính Trường Sơn vừa khắc họa được nét tiêu biểu của con người Việt Nam, dù thiếu thốn, khó khăn vẫn kiên cường chiến đấu.
Hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn VỚI tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm , bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu vì miền Nam. Trong bom đạn khốc liệt của chiến tranh, anh chiến sĩ vẫn dữ vững tư thế hiên nghang hướng về phía trước, thực hiện khẩu hiệu: “tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Câu thơ chuyển giai điệu, thanh thản, tự tin:
“ Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
 	Những từ ngữ chọn lọc “ung dung”, “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” thể hiện tư thế, phong cách anh bộ đội lái xe trên đường ra trận. Tư thế hiên ngang, lòng tự tin của anh bộ đội còn được biệu lộ ở chỗ bất chấp “ bom giật, bom rung” của kẻ thù, vẫn cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên, của đất nước, những nét đẹp lãng mạng, mặc dù cái chết còn lẩn quẩn, rình rập đâu đó quanh anh. Hình ảnh thơ đẹp, mạnh mẽ:
“ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
Những thiếu thốn,khó khăn vật chất lại càng không ngăn được con đường anh đi tới:
“ Không có kính, ừ thì có bụi”;
“ Không có kính, ừ thì ướt áo”
Câu thơ mộc mạc như một lời nói thường ngày đầy dí dỏm, tinh nghịch: “ừ thì có bụi”, “ ừ thì ướt áo” đã giúp ta hiểu thêm về người lính trước những khó khăn gian khổ . Có khó khăn nhưng nào đáng kể gì! Có sao đâu, anh chấp nhận tất cả.
Cách giải quyết khó khăn của anh cũng thật bất ngờ, thú vị:
“Chưa cần rửa, phì phèo châm điêu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”;
“ Chưa cần thay ,lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Ngôn ngữ bình dị, âm điệu vui thể hiện niềm lạc quan yêu đời của tuổi trẻ sống có lý tưởng. Tư thế hiên nghang, lòng dũng cảm đã làm nên sức mạnh của anh bộ đội. Sức mạnh ấy còn được nhân lên gấp bội vì cạnh anh còn có cả tập thể anh hùng. Từ trong bom đạn hiểm nguy, “tiểu đội xe không kính” được hình thành, bao gồm những con người từ bốn phương chung lý tưởng, gặp nhau thành bạn bè.
“ Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.
Các anh đã cùng chung niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ, của tình đồng đội, tình đồng chí. - Hình ảnh sinh hoạt ấm tình đồng đội:
“ Chung bát đũa nghĩa là gia đình
Võng mắc chông chênh đường xe chạy”.
      Những câu thơ này như tái hiện được những âm điệu vui tươi của bài hát: “Năm anh em trên một chiếc xe tăng”. Tuy mỗi người một tính nhưng ta chung một lòng.
Đọc những câu thơ tiếp theo, ta thấy rõ khó khăn gian khổ càng nhiều hơn chiến tranh càng ác liệt hơn:
“ Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”.
Nhưng dù khó khăn ác liệt đến mấy, ý chí chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của anh bộ đội vẫn không hề lay chuyển: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Hình ảnh tượng  “Chỉ cần trong xe có một trái tim” của bài thơ đã nêu bật được lòng yêu nước và ý chí quyết tâm dành chiến thắng của các anh...
Bài thơ thành công trong việc khắc họa hình ảnh những anh bộ đội lái xe trên  tuyến đường Trường Sơn đầy gay go, thử thách, một lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống  Mĩ cứu nước. Họ là hình ảnh “Nhân dân ta rất anh hùng”. Âm điệu trẻ chung, vui tươi, lời thơ gần với những lời nói trong sinh hoạt thường này và cách xây dựng hình tượng thơ độc đáo đã thể hiện phong cách thơ riêng của Phạm Tiến Duật.
ÁNH TRĂNG – NGUYỄN DUY
Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ tiêu biểu xuất hiện vào cuối những năm chống Mĩ với phong cách độc đáo bên cạnh những Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh...Hoà bình, những nhà thơ lính chiến từng để lại một phần tuổi trẻ ở chiến trường - mà Nguyễn Duy là một đại diện - lại tự bạch những nghĩ suy về quá khứ - hiện tại, để nhận ra sự đối thay của bản thân, của thế thái nhân tình. Đồng thời bộc lộ những suy tư gợi nhắc, gợi nhớ những năm tháng gian lao của đời lính đồng cam cộng khổ; để củng cố cho mình và người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung. Để nói rằng, làm người phải biết giật mình vì những phút giây bội bạc. Vì vậy đọc Ánh trăng bạn sẽ được gặp những nỗi niềm như vậy.
Bài thơ là câu chuyện về mối quan hệ giữa ta - người vô tình và trăng - người bạn tình nghĩa. Hai khổ thơ đầu mở ra ở thời điểm quá khứ, khi con người sống ân tình với nhau, với những mảnh đất bình dị, hiền hậu, nghèo khó đã gắn bó, nuôi sống ta dài lâu, gian khó, hiểm nguy. Trong khoảng thời gian hơn nửa đời người, từ thuở ấu thơ dến những năm vật lộn kiếm sống, rồi những tháng ngày chiến đấu, hi sinh, “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng” từng in đậm trong tâm trí mỗi con người. Vầng trăng - biểu tượng của đất và người những nơi ta qua, ân nghĩa với ta luôn luôn thuỷ chung thắm thiết, cùng ta đã trở thành “tri kỉ”.
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.
Hình ảnh không gian “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng” ở đây là những miền quê đặc trưng cho thiên nhiên, đất nước Việt Nam bình dị. Từ hàng nghìn năm, con cháu Lạc Hồng đã sống, dựng xây cơ nghiệp, chống giặc ngoại xâm chính trong những không gian thuần chất ấy. Và những vùng đất ấy - với tâm hồn ánh trăng đã trở thành một phần máu thịt của đời ta.
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ.
Từ sự gắn bó mật thiết đó, ta đã tự nhủ lòng mình dù đi đâu, về đâu, dù muôn sự đổi thay cũng không bao giờ quên hình ảnh bình dị, hiền hậu này :
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa.
 	Thế mà, khi hoàn cảnh sống thay đổi, ý nghĩ về sự gắn bó ân tình với đất và người ân nghĩa không còn nguyên vẹn. Giờ đây, trong không gian sống thành phố, với ánh điện, cửa gương, trong cuộc sống hiện đại ta đã dần lãng quên ánh trăng xưa, cuộc sống giản dị đầy gian khổ trong quá khứ :
Vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường.
 	Quan hệ “tri kỉ” xưa đã được thay thế bằng quan hệ người dưng, thiên nhiên bình dị xưa bây giờ tồn tại biệt lập với con người, con người đã lãng quên, vô tình phủ nhận quá khứ. Hôm nay, con người sống trong vinh hoa phú quí bỏ lại sau lưng quá khứ gắn bó ân tình giữa thiên nhiên bình dị - con người. Tưởng như con người ở đây đang tự đánh mất chính mình, đánh mất miền kí ức thăm thẳm có đau thương nhưng vô cùng thân yêu, gắn bó.
Ngày nay, trong cuộc sống nhộn nhịp chốn đô thị con người dường như lãng quên thiên nhiên cũng là lãng quên những chốn quê nghèo. Thế nhưng sự gặp gỡ đột ngột với vầng trăng, nghĩa là giữa quá khứ và hiện tại đã đánh thức miền kí ức xưa:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn - đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.
 	Vầng trăng - quá khứ dần gợi nhắc gợi nhớ về “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng” khiến con người hôm nay ‘rưng rưng”. Cảm xúc con người lúc này khó tả, buồn vui lẫn lộn. Con người vui sướng, hạnh phúc vì đã tìm lại được miền kí ức đồng thời ý thức được sự vô tình của chính mình và xót xa về sự đổi thay của con người qua năm tháng. Gặp lại ánh trăng nhớ về không gian đồng, sông, bể, rừng con người như tìm lại chính mình một thời dù khổ đau, gian khó nhưng sống vô cùng ân tình, thuỷ chung.
 	Từ đó, con người có được ý thức về trách nhiệm của mình, thái độ sống “Uống nước nhớ nguồn” thuỷ chung tình nghĩa:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
 	Cái im lặng của trăng vừa nói lên phẩm chất cao quí của dân tộc - con người Việt Nam “ làm ơn há dễ mong người trả ơn” vừa nghiêm khắc như một quan toà giàu nhân nghĩa, đức hi sinh.
 	Bài thơ “Ánh trăng” muốn tô đậm trong suy nghĩ mỗi người ý thức, tình cảm “nhớ nguồn”. Con người không được phủ nhận hay lãng quên quá khứ, sống ân tình thuỷ chung với những nơi, những người đã có công ơn với mình. Suy rộng ra, nâng cao hơn là với là với nhân dân, với đất nước đã nuôi dưỡng ta. Không thể quên quá khứ ấy. Bởi quá khứ ấy là lịch sử gian nan, hào hùng mà mình đã góp một phần cuộc đời. Quá khứ là kinh nghiệm để con người hướng tới tương lai. Sống thuỷ chung, luôn hướng về nguồn cội, về nhân dân còn thể hiện đạo lí làm người, tuân theo lẽ sống mà ông cha đã nhắn nhủ : Uống nước nhớ nguồn.
Và nếu đặt Ánh trăng của Nguyễn Duy bên Việt Bắc của Tố Hữu, ta sẽ thấy tuy mối cảm xúc và cách thể hiện khác nhau nhưng văn chương thời nào cũng vậy, đều tuyên ngôn cho tình nghĩa.
ĐỒNG CHÍ – CHÍNH HỮU
Chính Hữu là 1 trong những nhà thơ xuất sắc trong nền vhhđvn. Thơ ông thường có ngôn ngữ giản dị mộc mạc nhiều hình ảnh chọn lọc hàm xúc. Được sáng tác năm 1948 in trong tập đầu súng trăng cheo. Bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Tình đồng chí đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân
“Quê hương anh nước mặn đồng chua 
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Đó là cơ cở cùng chung giai cấp xuất thân của người lính. Chính điều đó họ từ mọi phương trời xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội CM và trở nên thân quen nhau.
Tình đồng chí nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ “ Súng bên súng đầu sát bên đầu”. Các hình ảnh “Súng bên súng đầu sát bên đầu” diễn tả sự thu hẹp về khoảng cách họ không chỉ chung về nhiệm vụ mà còn chung về ý nghĩ, hoạt động.
Tình đồng đội đồng chí nảy sinh bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ khó khăn. Đó là mối tình tri kỷ. “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” đến khi đắp chung chăn trong đêm giá rét thì họ thực sự là anh em, người nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết “Bát cơm sẻ nửa chăn xui đắp cùng”. Điều này đã thể hiện tình đồng chí gắn bó sâu sắc. như vậy tình đồng chí bắt nguồn sâu xa từ hoàn cảnh tri kỷ. sau đó, Chính Hữu hạ 1 dòng thơ đặc biệt với 2 tiếng “Đồng chí” câu thơ tạo thành 1 nốt nhấn như 1 sự phát hiện 1 lời khẳng định, đồng thời đó chính là cái bản lề gắt kết hai đoạn thơ với nhau.
Đồng chí là sự cảm nhận sâu xa những tâm tư nỗi lòng của nhau 
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày 
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay 
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Đất nước có chiến tranh họ sẵn sang lên đường để lại sau lưng quê hương công việc, và tình cảm nhớ thương của những người thân yêu. Hai từ “ Mặc kệ” đã thể hiện 1 cách sâu sắc vẻ đẹp và chiều sâu đời sống tâm hồn của người lính; vì nghĩa lớn họ sẵn sang dứt áo ra đi. Nhưng đằng sau là tình cảm nặng lòng với quê hương gia đình. Điều đó khiến người đọc liên tưởng đến 2 câu thơ của Nguyễn Đình Thi 
“ Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm lắng lá rơi đầy” – Đất nước
Đồng chí đó cũng là sự chia sẻ những gian nao, thiếu t

File đính kèm:

  • docphân tích thơ.doc