Truyện Kiều Văn Xuôi
Cuốn dây từ ấy về sau cũng chừa
Phím đàn dìu dặt trong tay Kiều. Trong khi khói trầm tỏa bay cao thấp thì âm thanh huyền diệu của bản đàn cũng vang vọng gần xa. Khúc đàn nào mà đầm ấm như thế? Đó là Hồ Điệp, hay là Trang Sinh? Khúc đàn nào mà êm ái như tình xuân như thế? Đó là tiếng gọi của hồn vua Thục hay của chim Đỗ Quyên? Những âm thanh trong sáng như hạt châu nhỏ vào biển trăng, những âm thanh ấm áp như những hạt ngọc Lam Điền mới đông cứng lại. Nghe suốt một bản nhạc có đủ năm cung bậc, Kim thấy không có âm nào là không xinh đẹp, chẳng có âm nào mang tính não nùng. Chàng hỏi:
- Bản nhạc này ai sáng tác? Đây là bản nhạc ngày xưa hay là một bản nhạc mới? Nếu cũng là một bản nhạc thì tại sao ngày xưa nó buồn bã như thế mà ngày nay nó lại vui tươi như thế này? Có phải là khổ hay vui đều do lòng của ta, hay là vì khi cái vận rủi đã hết thì cái vận may lại tới?
Kiều đáp:
- Ngày xưa cũng chỉ vì mê đắm cái loại nhạc đứt ruột ấy mà em đã khổ đau từ ấy đến giờ. Loại văn nghệ đoạn trường này thật là tai hại. Hôm nay vì anh mà em đã đàn lại khúc ấy. Từ đây trở đi, em quyết tạ từ thứ âm nhạc buồn khổ này.
Hai người chuyện trò tâm sự với nhau chưa xong thì gà đã gáy sáng và trời vừa rạng đông. Chuyện gì xảy ra giữa hai người Kim đem kể lại rõ ràng cho tất cả mọi người trong gia đình đều biết. Ai cũng lấy làm lạ lùng. Ai cũng khen Kiều là người có chí khí thanh cao, không giống với bất cứ một kẻ tầm thường nào khác, sớm thì mận tối thì đào. Tình yêu và tình bạn đi đôi với nhau một cách tuyệt hảo. Tuy không chung chăn chung gối nhưng hai người vẫn xướng họa và hòa tấu cùng nhau. Khi thì chén rượu, lúc thì cuộc cờ, khi thì cùng xem hoa nở, lúc thì cùng chờ trăng lên. Lời nguyền ba sinh đã được thực hiện hoàn toàn, vì tình yêu đôi lứa đã biến thành tình yêu bè bạn.
Mây bay hạc lánh
Họ vẫn nhớ lời tâm nguyện là xây một ngôi chùa để đi rước ni sư Giác Duyên về trụ trì và hướng dẫn tu học cho cả nhà, nên gia đình Kiều đã cho người thân tín đi rước ni sư. Nhưng khi đến chốn thảo am, họ thấy cửa am đã đóng, then cửa đã cài, rêu rong đã trùm lên kẽ ngạch và cỏ đã mọc lên cả trên mái nhà. Giác Duyên đã đi hái thuốc ở một phương trời xa nào đó, như đám mây bay, như con hạc lánh, làm sao để tìm ra tung tích ni sư bây giờ? Nhưng vì tình nghĩa sâu đậm với ni sư cho nên gia đình Kiều sớm tối nào cũng lên trên am để đốt đèn và thắp hương.
Gia đình hưởng đầy đủ phúc và lộc. Kim và Vương cứ từ từ được thăng quan tiến chức và hạnh phúc kéo dài lâu bền. Thúy Vân đảm đang hết trách nhiệm thừa kế. Nàng sinh ra một đàn con cháu khá đông đảo, từ một gốc cù mộc nở ra bao nhiêu hoa quế hoa hòe. Nếp phong lưu và phú quý của gia đình họ ai mà sánh kịp, và họ như một thửa vườn đầy xuân sắc để lại tiếng thơm cho muôn đời.
ng cuộc đời của Kiều. Cuối cùng ni sư hỏi đạo cô: - Đạo huynh, tại sao một con người vừa có hiếu vừa có nghĩa đầy đủ mọi đường như thế mà trong kiếp sống lại chỉ gặp toàn những chuyện đau thương, đứt ruột như thế? Đạo cô Tam Hợp trả lời: - Tai họa và hạnh phúc nói là do trời quyết định nhưng thật ra cội nguồn của chúng cũng do từ ở lòng người mà ra. Có trời mà cũng tại ta: tu hành là cội nguồn của hạnh phúc, tình ái là sợi giây oan nghiệt buộc lấy thân mình. Kiều là một người có nhan sắc và có thông minh, nhưng lại là một cô gái thiếu duyên phúc. Thêm vào đó, Kiều lại đa tình đa cảm, và trở thành nạn nhân của chính cái đa tình đa cảm ấy, luôn luôn tự lấy sợi giây tình mà buộc thân phận mình vào những hoàn cảnh hệ lụy. Cũng vì vậy mà ngay những lúc đáng được thong dong, cô ta cũng ở không yên, ngồi không vững. Mình bị cái đa tình đa cảm của chính mình kéo mình đi về những chốn đoạn trường không ngớt. Thật là ma đưa lối, quỷ dẫn đường. Hết tai nạn này thì tới tai nạn khác. Hết hai lần làm kỹ nữ đến hai lần làm nô tỳ. Bây giờ thì trong chốn giáo dựng gươm trần cô ta đang kề lưng hùm sói, và sau này cũng sẽ lại rơi xuống làm thân nô lệ. Đã hết đâu. Trong tương lai sẽ phải gieo mình trên sóng nước bập bềnh làm mồi cho loài rồng cá. Tình và oan đi đôi với nhau, oan kia sẽ đi theo mãi với tình, và trong hoàn cảnh khổ đau đó chỉ một mình mình biết, một mình mình hay, không ai thấu được nỗi khổ đau của mình, không ai chia sẻ được với mình nỗi cô đơn cùng cực ấy. Cái oan tình ấy sẽ làm cho Kiều sống thì đọa, chết thì đày, và cái khổ đau đứt ruột này sẽ đi theo Kiều cho hết kiếp. Nghe đạo cô nói thế, ni sư Giác Duyên cảm thấy toàn thân bủn rủn rụng rời. Ni sư than: - Nếu quả thật như thế thì cả một kiếp sống của Kiều đâu còn gì nữa? Đạo cô nói: - Nhưng không sao đâu. Nghiệp duyên của Kiều còn được cân lại nhắc đi nhiều lần. Xét cho kỹ thì trong trường hợp của Kiều tuy đã từng vướng vào tình ái nhưng lại không để cho mình phạm vào tội tà dâm. Lại còn biết lấy tình thâm để đền trả nghĩa thâm: sự kiện Kiều bán mình chuộc cha đã làm đất trời cảm động. Hơn nữa, hành động hại một người để cứu được muôn người, biết cái gì là quan trọng và cái gì là không quan trọng, biết cái gì là phải, biết cái gì là sai, đó là những công đức tích cực của Kiều, ít ai sánh kịp. Nhờ đó mà nghiệp trước sẽ được dần dần rửa sạch. Rồi sẽ đến lúc trời cũng chiều người, nghiệp xưa một khi đã nhẹ thì duyên sau sẽ được đền bồi. Nếu ni sư Giác Duyên có còn tha thiết với tình bạn thì hãy chuẩn bị một chiếc bè lau đợi ở sông Tiền Đường để cứu Kiều. Như vậy thì lời hứa năm xưa trước sau sẽ được vẹn toàn, và khi ta gây nhân tốt thì phúc trời kia cũng sẽ đến với ta. Nghe đạo cô nói, Giác Duyên mừng rỡ trong lòng. Ni sư tìm đến bên sông Tiền Đường đánh tranh dựng một thảo am để cư trú. Cảnh trí ở đây thật đẹp. Một gian thảo am trên thì có mây vàng, dưới thì có nước biếc. Ni sư thuê hai người ngư dân đóng thuyền trực ở bến, kết lưới giăng sông suốt cả một năm. Ni sư không quản gì công phu chờ đợi, và may thay duyên nghiệp đã sắp đặt để ni sư có dịp gặp lại Kiều trong khung cảnh ấy một cách mầu nhiệm. Khi Kiều gieo mình xuống sông thì nước cuốn nàng trôi xuôi ngay vào lưới của hai người ngư phủ. Khi thấy lưới nặng hai người kéo lên thì thấy có Kiều trong lưới. Thế mới biết những lời tiên đoán của đạo cô thật là ứng nghiệm thần diệu. Kiều được kéo lên mui thuyền, áo lụa của nàng lướt mướt. Tuy Kiều có bị uống nước, nhưng tánh mạng của nàng chưa đến nỗi nào. Ni sư nhận thật ra được mặt Kiều, trong khi Kiều còn nằm thiêm thiếp bất tỉnh. Phách quế hồn mai còn đang mơ màng, Kiều chợt thấy Đạm Tiên ngày xưa xuất hiện. Đạm Tiên nói: - Em chờ chị ở đây từ mười mấy năm nay, công phu biết mấy. Thật là mầu nhiệm. Phận của chị tuy mỏng, nhưng đức của chị lại dày. Quá khứ đầy khổ đau như thế, nhưng tương lai dễ có mấy người có được nhiều may mắn như chị. Tấm lòng của chị đã làm cảm động đến trời. Bán mình chuộc cha, chị là người có hiếu. Chấm dứt binh đao để cứu người khỏi chết, chị là người có nhân. Vì chị một lòng vì nước vì dân cho nên cán cân nghiệp báo đã nghiêng về phía tích cực. Bây giờ tên của chị đã được rút ra khỏi sổ đoạn trường thì em phải gặp chị để trả lại cho chị mười bài thơ đoạn trường mà chị đã đóng góp cho hội. Chị đừng lo nhé: từ đây về sau chị sẽ hưởng thụ rất nhiều hạnh phúc, và mối lương duyên của chị sẽ được tròn trặn như xưa. Kiều còn ngớ ngẩn chưa biết trả lời ra sao thì bên tai bỗng nghe tiếng gọi: - Trạc Tuyền! Nàng giật mình tỉnh dậy. Ngơ ngác, Kiều chẳng biết đây là chốn nào và ai đang ở chung quanh. Trên thuyền nàng không thấy bóng dáng Đạm Tiên đâu cả. Trái lại, ngồi sát bên cạnh là sư chị Giác Duyên bằng xương bằng thịt. Thấy nhau, cả hai đều mừng rỡ không thể nào kể xiết. Ni sư Giác Duyên cho dọn dẹp thuyền lưới lại, và đưa Kiều về thảo am. Hai chị em lại được sống chung một nơi, sớm chiều có nhau. Tuy nếp sống muối dưa đạm bạc nhưng tâm hồn cả hai đều được thảnh thơi. Cänh trí có gió có træng làm cho cä hai ngÜ©i, ngÜ©i nào cÛng m¥t mày tÜÖi mát. Buổi hôm buổi sớm đều có tiếng thủy triều lên xuống, và từ phía trước am cũng như phía sau am, hai người được ngắm những áng mây có đủ sắc màu. Cảnh trí ở đây mênh mông bát ngát cả bốn bề. Tai nạn xưa bây giờ đã hoàn toàn trút sạch, và mối duyên xưa nào ai có biết sẽ lại xảy ra ngay ở chốn này? Đau nỗi biệt ly Kiều đã đi qua bao nhiêu tai nạn trong cuộc đời nàng. Nhưng những gì xảy ra cho Kim Trọng trong thời gian ấy cũng thật đáng thương. Từ giã Kiều để về Liêu Dương hộ tang chú, Kim Trọng phải ở lại đấy tới nửa năm trường. Khi về lại Bắc Kinh, tìm tới vườn Thúy thì chàng thấy phong cảnh đã hoàn toàn đổi khác. Đầy vườn nhà Kiều cỏ hoang đã mọc, các cửa sổ hình mặt trăng đã trở nên thê lương quạnh quẽ, còn vách tường nhà đã bị dầm mưa rã rời từng mảng. Nhìn trước nhìn sau Kim chẳng thấy một bóng người. Chỉ có những cây anh đào trước sân đang tới mùa hoa nở, hoa vẫn cười cợt với gió mùa xuân giống y như năm ngoái. Chim én đang xập xòe bay lượn trên chiếc lầu trống trải. Cỏ dại lan đầy mặt đất, rêu rong đã phủ hết các dấu chân người. Cuối bức tường gai góc mọc đầy. Và đây là những ngõ ngách mà Kiều đã chui qua thăm Kim ngày nọ. Cảnh vật xung quanh lạnh ngắt như tờ. Nỗi niềm tâm sự tràn đầy, Kim chẳng biết chia sẻ cùng ai. Ngay lúc ấy có một người láng giềng đi ngang. Kim nhân cơ hội tới gần và hỏi thăm về gia đình Kiều. Chàng được biết là ông Vương đã bị bắt oan, và Kiều đã phải bán mình để chuộc cha ra khỏi vùng tù tội. Gia đình đã dời đi nơi khác. Hỏi thăm Vương Quan và Thúy Vân, Kim được biết rằng cả gia đình đều sa sút. Gặp bước khó khăn, mọi người phải đi may thuê viết mướn để tìm cách sinh nhai. Những điều Kim được nghe như sét đánh lưng trời làm cho chàng choáng váng rụng rời. Chàng vội hỏi xem gia đình ông Vương đã dời đi nơi đâu, rồi lập tức tìm tới tận nơi ấy. Chỗ gia đình ông Vương đang ở bây giờ là một túp lều tranh, vách tô bằng đất, đã có vẻ tả tơi, rèm nhà thấp chủn đan bằng lau sậy. Phên nhà thì được gài bằng tre thưa. Khoảng sân trước nhà đầy cỏ và ướt dầm nước mưa, trông thật tiều tụy và ngao ngán. Đứng ngoài tường, Kim Trọng đánh liều lên tiếng gọi. Nghe tiếng chàng, Vương Quan vội vàng chạy ra. Thấy Kim, Vương nắm tay chàng kéo ngay vào nhà. Từ mái sau, hai vợ chồng ông Vương cũng lập tức đi ra. Ông bà thấy Kim liền sa nước mắt. Họ khóc than kể lể hết mọi nỗi niềm khổ đau mà họ đã chịu đựng. - Cháu ơi, cháu có biết những gì rủi ro đã xảy đến cho Kiều hay chưa? Em nó không có phước, phận nó mỏng như một tờ giấy. Nó lỡ thề nguyền tóc tơ với cháu, nhưng gặp cơn tai biến của gia đình, nó đã phải bán mình cứu cha, làm lỡ làng cả duyên phận. Ngày ra đi, nó đau khổ vô cùng. Nó cứ dùng dằng mãi và dặn bác tới ba bốn bận, là xin bố mẹ mượn em Thúy Vân để thay thế nó mà đền đáp lại ân tình cho người nó yêu. Nó nói: 'Bố mẹ ơi, chỉ có cách đó thì con mới đền trả được chút ít cái tình nghĩa lớn lao của chàng. Con sẽ muôn đời không quên chàng. Kiếp này con đã phụ chàng thì kiếp sau con nguyền sẽ đền đáp lại.' Nó cứ dặn đi dặn lại mấy điều đó một cách rất kỹ lưỡng, cốt để cho hai bác phải nhớ lấy rồi mới cất mình ra đi. Kiều ơi, đứa con yêu của bố mẹ ơi, sao mà số phận con mỏng manh đến như thế? Chàng Kim đã về tới đó, nhưng còn con thì bây giờ con ở đâu?' Hai ông bà càng nói thì niềm đau xót càng tăng. Nghe đến đâu thì ruột Kim Trọng càng thắt lại tới đó. Chàng lăn xuống sân nhà, khóc như mưa như gió. Nước mắt chàng đầm đìa, hồn phách chàng thẫn thờ. Có những lúc niềm đau dâng lên cao quá, Kim ngất đi. Ngất đi để rồi tỉnh dậy mà khóc than tiếp. Khóc than nhiều thì cơn đau lại dâng lên và Kim lại ngất đi nữa. Thấy Kim đau khổ quá nhiều vì nỗi biệt ly, ông bà Vương cố tìm cách khuyên giải chàng. Ông nói: - Bây giờ em nó đã bị gả bán cho người ta, cũng như ván đã đóng thuyền. Nó đã chấp nhận số phận bạc bẽo của mình, không hy vọng gì đáp lại tấm tình chung của cháu nữa. Hai bác biết là cháu rất thương nó, tiếc nó, nhưng không lẽ cháu lại đi hủy hoại cái thân ngàn vàng của cháu hay sao? Cháu phải biết giữ gìn cái thân của cháu chứ? Càng tìm mọi phương cách dỗ dành và khuyên giải, hai ông bà lại càng làm cho nỗi đau phiền của Kim lớn lên. Những kỷ vật ngày xưa như trầm hương và xuyến vàng được đem ra. Thấy những kỷ vật này Kim càng thương, gan chàng càng tức tối, ruột chàng càng xót xa. Kim nói: - Chỉ vì con lỡ bước chân ra cho nên mới xảy ra cơ sự bèo dạt hoa trôi như thế. Nếu con ở nhà thì đã đâu đến nỗi này? Chúng con đã thề thốt nặng lời với nhau, những điều vàng đá đó đâu phải là những điều nói suông được. Dù cho chúng con chưa chung chăn chung gối với nhau, nhưng trên nguyên tắc chúng con đã là vợ là chồng của nhau rồi, làm sao mà có thể chấm dứt liên hệ này dễ dàng như thế cho được. Nếu cần bao nhiêu công của, tốn bao nhiêu tháng ngày để tìm kiếm, con cũng quyết tìm gặp lại cho được Kiều. Nỗi nhớ niềm thương nói ra chưa hết, Kim chào tạm biệt gia đình ông Vương và bước ra. Chàng về chuẩn bị sửa soạn căn nhà chàng thuê bên vườn Thúy để rước cả gia đình ông Vương cùng tới ở. Kim Trọng quyết thay thế Kiều để chăm sóc cha mẹ Kiều, sớm hôm hầu hạ hai người với tư cách của một người con có hiếu, làm công việc mà Kiều đã làm ngày xưa. Trong thời gian ấy chàng lấy nước mắt để mài mực viết thơ rồi gởi người đi hỏi thăm và tìm kiếm tung tích của Kiều. Biết bao nhiêu công mượn của thuê, và đã biết bao người đã được gởi về quận Lâm Thanh để điều tra tìm kiếm. Nhưng người thì đang ở Lâm Tri mà tìm thì lại đi tìm ở Lâm Thanh, mênh mông trời biển tìm sao cho ra được? Vì vậy cho nên Kim càng nóng ruột, càng khẩn thiết, gan chàng như nung, ruột chàng như bào, thân thể chàng càng ngày càng ốm o, hao mòn như một con ve. Lúc thì chàng tỉnh, lúc thì chàng mê, máu muốn trào theo nước mắt, hồn muốn lìa xác trong những giấc chiêm bao. Hai ông bà Vương thấy thế xiết bao lo sợ. Lỡ chàng có mệnh hệ nào thì chẳng biết làm sao. Họ bèn quyết định chọn ngày lành tháng tốt chuẩn bị làm lễ cưới, gả Thúy Vân cho chàng. Thế là đám cưới được cử hành. Chàng là kẻ sĩ tài hoa, nàng là giai nhân yểu điệu, hai bên đều xuân xanh vừa lứa. Tuy Kim Trọng tìm được niềm vui trong cuộc tác hợp này nhưng mối sầu đau của chàng vẫn chưa gỡ ra được. Khi ăn ở, lúc ra vào, tuy cảm thấy được niềm vui của cuộc tác hợp mới nhưng niềm nhớ thương của mối tình cũ vẫn canh cánh bên lòng. Nhớ thương cho đến bao giờ mới khuây? Có khi trong thư phòng vắng vẻ, Vân và chàng đem hương xưa ra đốt và đàn xưa ra gảy. Tiếng tơ rủ rỉ chuyển mình trong khi trầm bay nhạt khói và gió nhè nhẹ đưa chiếc màn lay động. Cả Vân và Kim đều có cảm tưởng là bên chái bên thềm có tiếng Kiều về đồng vọng, và có cả bóng xiêm y của Kiều thấp thoáng mơ màng. Bởi vì lòng của hai người đã ghi nhớ lời trăn trối của Kiều nên khi tưởng nhớ tới Kiều thì họ thấy như có Kiều hiện về trong giây phút ấy. Hoa chào ngõ hạnh Những phiền muộn vì nhớ thương kéo dài với bao nhiêu năm tháng. Năm ấy có khoa thi đặc biệt. Cả Kim Trọng lẫn Vương Quan đều đậu tiến sĩ cùng một ngày. Thế là cửa trời rộng mở đường mây, cả hai đều được vinh quy bái tổ. Hoa chào hai chàng ở ngõ hạnh nơi vườn ngự uyển, và hương thơm danh dự bay về tận chốn quê nhà. Nhớ đến gia đình ông Chung đã từng nâng đỡ cho mình trong giai đoạn khó khăn ngày trước, chàng Vương bèn sang nhà ông để tạ ơn. Nhân dịp này, chàng được ông bà Chung gả con gái cho. Còn Kim Trọng thì từ khi thi đậu làm quan, càng nghĩ chàng càng thấy thương Kiều. Ngày xưa ai đã dặn ngọc thề vàng với mình? Và bây giờ mình đang hưởng kim mã ngọc đường với ai? Cố nhân đang lạc loài phương nào nơi rễ bèo chân sóng? Giờ đây được vinh hiển, chàng nhớ tới người đang lạc bước lưu ly. Kim được lệnh vua ban ra nhậm chức ở Lâm Tri. Đường xa ngàn dặm, chàng đem theo cả gia đình. Trong khi làm quan chàng được sống những ngày tháng nhàn nhã, sớm hôm chỉ có tiếng đàn và tiếng hạc. Một đêm mùa xuân, nằm nơi chốn trướng rũ hoa đào, Thúy Vân bỗng nằm mơ thấy Kiều. Sáng ra nàng kể lại với Kim. Nghe Vân nói chàng sinh nghi: Có thể ngày xưa Kiều đã bị bán về Lâm Tri chứ không phải Lâm Thanh. Có lẽ người ta đã nghe lầm chữ Tri ra chữ Thanh. Đồng thanh thì tương ứng và đồng khí thì tương cầu, Vân nằm mơ thấy Kiều có thể là vì như thế. Ta hãy hỏi dò thử xem. Sáng hôm ấy thăng đường, Kim mới bắt đầu hỏi tra. Có một vị thừa lại tuổi đã già họ là Đô thưa lên với chàng: - Chuyện này chính con biết, đã xảy ra hơn mười năm về trước. Con cũng biết mặt, biết tên rõ ràng các đương sự. Tú Bà và Mã Giám Sinh đã đi mua người đẹp ở Bắc Kinh đem về. Thúy Kiều là người vừa có tài, vừa có sắc, không ai bì kịp, đã giỏi nghề đàn hát lại thạo nghề văn thơ. Nàng thật là một người đàn bà kiên trinh, đã liều mình tự tử như thế để không bị nhục, nhưng đã bị đánh lừa như thế kia để phải buộc lòng tiếp khách. Bao nhiêu phong trần nàng đã phải gánh chịu trong hoàn cảnh này. Sau đó Kiều đã được gả cho chàng Thúc Sinh để làm vợ lẽ. Nhưng Kiều quá rủi ro. Bà vợ cả của Thúc Sinh là một người quá phũ phàng. Bà ta cho người đi bắt cóc Kiều đem về Vô Tích định bức tử nàng. Cuối cùng chịu không nỗi nữa Kiều đã trốn đi. Không may lại gặp một cặp thứ hai là Bạc Bà và Bạc Hạnh. Họ mua Kiều về rồi bán Kiều ngay lập tức. Thật kiếp số của Kiều là kiếp số mây trôi, bèo nổi. Nhưng lần này Kiều gặp một bậc trí dũng hơn người, uy linh khôn kể. Trong tay ông ta có hơn mười vạn quân lính, kéo về đóng chật một thành Lâm Tri. Ông đã cho điều tra kỹ lưỡng về các vụ bức hại Thúy Kiều trước kia, và cho người đi lùng bắt những tội nhân ấy đem về. Ai gây oán thì bị trả oán, ai thi ân thì được ÇŠn ân. KiŠu thÆt là m¶t ngÜ©i có nghïa có nhân. Nhân nghïa vËn toàn, xa gÀn ai cũng khen ngợi. Con chưa biết được họ tên và tung tích của con người đặc biệt ấy. Việc này xin quan lớn mời ông sinh viên họ Thúc đến hỏi thì mới biết. Theo lời ông thư ký họ Đô, Kim Trọng viết thiếp mời Thúc Sinh: - Người chồng ấy của Kiều là ai, tên họ là gì? Xin nói rõ cho biết. Thúc Sinh trả lời: - Có dịp gặp Kiều trong quân ngũ vào thời loạn lạc, tôi đã hỏi và đã biết rất nhiều chi tiết. Đại vương họ Từ tên Hải, đánh giặc trăm trận trăm thắng, một mình có thể đọ sức với muôn người. Ông gặp Kiều ở Châu Thai. Cố nhiên người quốc sắc kẻ thiên tài khi gặp nhau thì sự việc đã xảy ra như thế. Quân lính của đại vương Từ Hải đã vẫy vùng trong bao nhiêu năm làm cho kinh thiên động địa cả một vùng. Đại quân sau đó về đóng tại miền Đông. Từ đó về sau tôi chẳng còn tin tức gì nữa. Ngọn triều non bạc Được nghe về Kiều với tất cả những chi tiết có ngành có ngọn rõ ràng, Kim cảm thấy lao đao và thẫn thờ trong dạ. Thương thay cho thân phận Thúy Kiều, thân phận của một chiếc lá lìa cành bơ vơ không nơi nương tựa. Không biết những năm tháng gió bụi ấy bao giờ mới rũ sạch cho xong? Tưởng chừng như cánh hoa rụng đã theo dòng nước chảy xuôi, thật xót xa cho thân Kiều chìm nổi, và đau đớn biết mấy cái cuộc phân ly này. Lời nguyền xưa đã lỡ, tuy mảnh gương còn đó và phím đàn còn đây. Nâng chiếc đàn lên thì bốn giây đàn cũng chỉ phát ra được những âm thanh ngơ ngẩn. Trong kiếp này ta còn có chút hy vọng nào về hương lửa nữa chăng? Nàng còn phiêu lưu ngoài kia như một cánh bèo trôi, như một bông cỏ nhẹ, không biết ở chốn nào, thì dù cho có bao nhiêu phước lộc vua ban ta cũng không thể ngồi yên đây mà tận hưởng. Kim Trọng những muốn treo ấn từ quan, để xông pha lặn lội đi tìm Kiều, nghĩ rằng mấy sông chàng cũng có thể lội và mấy đèo chàng cũng sẽ vượt qua. Chàng nghĩ nếu cần dấn thân đi qua những nơi binh lửa, dù có phải vào sinh ra tử nữa, chàng cũng sẽ liều mình, nếu không thì không có cơ hội gặp lại được người yêu cũ. Nhưng nghĩ lại cho kỹ thì trời đất thăm thẳm, sông biển bao la, dấu tích Kiều như bóng chim tăm cá, biết hướng nào mà đi tìm? Trong khi nấn ná chờ đợi để mong nhận thêm được một vài tin tức về Kiều, bao nhiêu năm tháng cùng mưa nắng đã đi qua. Bỗng nhiên có chiếu của vua ban tới, dạy rằng Kim Trọng phải đi trấn nhiệm ở Nam Bình và Vương Quan cũng phải đi trấn nhiệm ở thành Thư Dương. Cả hai gia đình đều vội vàng sắm sửa xe ngựa cùng một đường đi nhậm chức. Nghe tin giặc giã miền ấy đã tan, sóng Phúc Kiến đã êm và lửa Triết Giang đã tàn, Kim Trọng mới rủ Vương Quan trên đường đi nhậm chức cùng ghé lại tìm Kiều. Đến Hàng Châu, hai người hỏi được rất nhiều tin tức về nàng. Người ta đã kể về chuyện nàng rất rành mạch với thật nhiều tin tức: 'Ngày hôm hai bên giao chiến, vì thất trận, Từ Hải đã bỏ mình giữa chốn chiến trường. Công lớn của Kiều trong cuộc chiến thắng ấy lại không được đền trả, trái lại nàng đã bị ép lấy một viên tù trưởng địa phương. Vì vậy mà Kiều đã nhảy xuống sông tự tử. Sông Tiền Đường ấy là mộ của nàng.' Thương xót biết bao nhiêu! Tại sao có chia ly mà không có hội họp? Cả nhà được vinh hiển, duy chỉ có một mình nàng là gánh chịu oan khổ. Mọi người tổ chức làm lễ chiêu hồn, thiết lập bài vị của Kiều. Một đàn chay giải oan được dựng lên ngay bên bờ sông Tiền Đường. Nhìn ngọn sóng triều vĩ đại dâng lên như một hòn núi trắng xóa, đợt này nối theo đợt khác, ai cũng tưởng tượng được giờ phút cánh chim hồng đang gieo mình xuống nước. Trong tình máu mủ, ai lại không thấy lòng mình đang chìm đắm trong biển cả thảm sầu? Hồn con chim Tinh Vệ bây giờ biết tìm ở đâu? Nhưng cơ duyên thật là lạ lùng. Trong khi đàn chay sắp sửa khai mạc thì ni sư Giác Duyên tự nhiên đi ngang, tìm tới. Trông lên linh vị, thấy tên của Thúy Kiều, ni sư kinh hãi, vội hỏi: - Quý vị là ai? Tại sao người ta đang còn sống mà lại đi làm chay để cầu siêu cho người ta như vậy? Nghe ni sư nói ai cũng ngơ ngác, rụng rời. Tất cả mọi người đều xúm quanh Giác Duyên để tra hỏi. Đây là thân phụ của Kiều, đây là thân mẫu của Thúy Kiều, đây là em trai của Kiều, đây là em gái của Kiều, đây là chồng chưa cưới của Kiều, và đây là em dâu của Kiều. Chúng tôi được nghe tin rằng Kiều đã chết. Ai cũng nói như thế! Bây giờ ni sư lại dạy là Kiều còn sống thì chúng tôi làm sao mà tin được? Lạ quá! Đâu có thể như vậy được? Giác Duyên bảo: - Tôi có nhiều mối nhân duyên quan hệ với Kiều. Trước đã từng gặp Kiều ở Lâm Tri, sau lại còn gặp Kiều ở sông Tiền Đường. Khi Kiều gieo mình tự tử tôi đã quăng lưới cứu được Kiều, rồi đón Kiều về chùa. Chùa lá cũng gần đây thôi, không xa xôi gì mấy. Chúng tôi đã cùng sống và tu học với nhau tại đó từ ấy tới nay. Thỉnh thoảng Kiều cũng có ý nhớ nhà. Các vị muốn gặp Kiều thì tôi sẽ đưa quý vị về chùa ngay tức khắc. Trời còn để có hôm nay Nghe ni sư Giác Duyên nói, ai cũng cảm thấy nở mặt nở mày. Còn có nỗi mừng vui nào lớn hơn nỗi mừng vui này nữa hay không? Từ khi chiếc lá lìa rừng, công cuộc thăm tìm đã lắm mà mặt nước chân mây vẫn không có dấu tích gì. Ai cũng nghĩ rằng Kiều như một bông hoa đã rụng, một áng mây đã bay, họa chăng kiếp sau mới gặp được, chứ trong kiếp này thì không còn hy vọng. Tưởng rằng âm dương đã chia thành hai ngả, vậy mà bây giờ lại có hy vọng tìm ra được người chín suối ngay trên cõi trần này! Cả nhà xúm nhau lại lạy tạ ni sư Giác Duyên, và tất cả đều đi bộ theo ni sư ngay lúc ấy. Mọi người bẻ lau vạch cỏ tìm đường đi tắt về chùa, nhưng trong lòng vẫn còn hồ nghi chưa tin ngay được rằng đây là sự thật. Đi quanh co theo giải bờ
File đính kèm:
- TKVX.doc