Tiểu luận Vùng duyên hải nam trung bộ
Các điểm tài nguyên nổi bật: Bà Nà, Sơn Trà, Non Nước (Đà Nẵng); Hội An, Mỹ Sơn, Cù Lao Chàm (Quảng Nam); Mỹ Khê, Trường Lũy, Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phương Mai, Quy Nhơn (Bình Định), Vịnh Xuân Đài, Đầm Ô Loan (Phú Yên); Nha Trang, Cam Ranh, Trường Sa (Khánh Hòa); Cà Ná, Ninh Chữ, Vĩnh Hy (Ninh Thuận), Phan Thiết, Mũi Né, đảo Phú Quý (Bình Thuận).v.v.
Với vị trí địa lý quan trọng, và những đặc thù về tài nguyên, Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 định hướng vùng Duyên hải Nam Trung Bộ là một trong bảy vùng du lịch cả nước, giữ vai trò hết sức quan trọng đối với du lịch Việt Nam.
Thời gian qua du lịch vùng Duyên hải Nam Trung Bộ đã được các cấp chính quyền ở các địa phương trong vùng quan tâm đầu tư khai thác có bước phát triển và đóng góp nhất định vào sự nghiệp phát triển du lịch chung.
n với hàng trăm ngàn lao động trên biển, nhưng lâu nay công tác hậu cần nghề cá vẫn chưa được quan tâm đúng mứ Tại Quảng Nam có 3 cảng cá là Tam Kỳ, Cửa Đại và An Hòa, nhưng đều bất cập, thiếu đồng bộ trong xây dựng các hạng mục và thiếu hợp lý khi lựa chọn địa điểm nên vô tình... gây khó, buộc ngư dân phải cập vào các cảng cá do tư nhân xây dựng manh mún và tự phát. Ông Nguyễn Văn Khương, Trưởng phòng Kinh tế TP. Hội An cho biết: Cảng cá Cửa Đại được phê duyệt và tiến hành xây dựng từ năm 1999 với số vốn đầu tư gần 19 tỷ đồng. Năm 2003, dự án xây dựng xong bờ rào, cầu cảng, nhà tiếp nhận thủy sản và một vài hạng mục khác. Sau đó, dự án phải tạm dừng để chuyển giao cho Công ty Đầu tư xây dựng, TM&DV Cù Lao Chàm. "Từ khi chuyển giao đến nay, công trình hoàn toàn không được xây dựng thêm nên không được sử dụng cho mục đích thiết thực nào" - ông Khương nói. Cảng cá Tư Hiền, xã Vinh Hiền (huyện Phú Lộc) do Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thừa thiên - Huế làm chủ đầu tư với kinh phí 29 tỷ đồng, được bắt đầu xây dựng vào tháng 8/2004 và hoàn thành vào tháng 8/2010. Tuy nhiên, hơn 3 năm nay công trình này phơi mưa, phơi nắng, dẫn đến hư hỏng nặng Nhật Bản chuyển giao công nghệ câu cá ngừ đại dương của Nhật cho ngư dân tỉnh Bình Định Ngày 10/6, tại cửa biển Tam Quan Bắc, xã Tam Quan Bắc, huyện Hoài Nhơn (Bình Định), UBND tỉnh Bình Định phối hợp với Hội hữu nghị Nhật - Việt tại Sakai tổ chức Lễ Giao nhận thiết bị và công nghệ câu cá ngừ đại dương của Nhật cho ngư dân tỉnh Bình Định. Ông Masakazu Shoga, chia sẻ thêm: Hàng năm, Nhật Bản tiêu thụ khoảng 600.000 tấn cá ngừ đại dương, trong đó có 300.000 tấn phải nhập từ nước ngoài, nhưng chỉ 100.000 tấn cá tươi, 200.000 tấn là đông lạnh. Đặc biệt, các nước nhập khẩu cá sang thị trường Nhật thì có tới 80% ngư dân đang sử dụng những thiết bị và công nghệ của chúng tôi cung cấp. Vì thế, chúng tôi tin khi áp dụng thành công ở Bình Định, có thể áp dụng rộng rãi cho ngư dân Việt Nam. Chúng tôi rất muốn những ngư dân đánh bắt cá ngừ đại dương sẽ bán được với giá cao hơn giúp người dân đỡ khổ”. 1. Điểm mạnh - Hệ thống giao thông thủy, bộ, đường sắt, hàng không phát triển dọc ven biển, bờ biển dài, sâu, có nhiều eo, vịnh vì vậy vùng này có lợi thế để xây dựng các trung tâm nghề cá lớn gắn với ngư trường trọng điểm. - Toàn Vùng có hệ thống đào tạo tương đối hoàn chỉnh, nổi bật nhất là các cơ sở có truyền thống trong đào tạo nguồn nhân lực thủy sản: Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III, Đại học Nha Trang, Đại học Nông Lâm - Đại học Huế. Phần lớn dân cư phân bố dọc ven biển, cơ cấu dân số trẻ so với cả nước và các vùng kinh tế khác, lao động nghề cá truyền thống đông đảo, có kinh nghiệm, dũng cảm, sáng tạo. - Vị trí địa lý Vùng gần các ngư trường Hoàng Sa, Trường Sa, DK1 nên có tiềm năng phát triển khai thác hải sản xa bờ, đặc biệt là khai thác cá ngừ đại dương. Nước biển khu vực ven bờ vùng duyên hải Nam Trung Bộ có độ mặn cao và sạch, là điều kiện lý tưởng để Vùng trở thành khu vực sản xuất giống hải sản tốt nhất ở nước ta. Diện tích mặt biển lớn với các eo, vịnh, đầm phá rất thuận lợi phát triển nuôi biển. 2. Điểm yếu - Xuất phát điểm nền kinh tế của các địa phương thấp, tích lũy đầu tư nhỏ khó cân đối nguồn lực phát triển ngành. Doanh nghiệp năng lực cạnh tranh thấp, thiếu liên kết giữa các thành phần trong chuỗi giá trị sản xuất, chưa có sản phẩm chủ lực có thương hiệu. Cơ sở hạ tầng, hệ thống dịch vụ hậu cần nuôi trồng, chế biến thương mại đặc biệt là cho khai thác hải sản xa bờ rất yếu kém, không đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất. - Lao động nghề cá chưa qua đào tạo còn lớn; tỷ lệ lao động lành nghề, đáp ứng cao yêu cầu doanh nghiệp thấp; thiếu hụt nghiêm trọng nguồn lao động chất lượng cao, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao. - Các hoạt động phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS) tự phát đã tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái, đa dạng sinh học, bùng nổ bệnh tôm, ô nhiễm nước cục bộ đã từng phát sinh và ảnh hưởng đến tính bền vững của nuôi trồng thủy sản. Nguồn lợi thủy sản đang bị khai thác bừa bãi cũng dẫn đến tình trạng suy giảm tính đa dạng sinh học, mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. 3. Cơ hội - So sánh lượng cung - cầu theo dự báo cho thấy nhu cầu thủy sản và các sản phẩm thủy sản sẽ cao hơn lượng cung tiềm năng trong đó tiêu thụ thủy sản với nhịp độ cao hơn là do sự gia tăng nhanh hơn về dân số và thu nhập. - Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng là cơ hội mở rộng thị trường, tạo đầu ra, khuyến khích mở rộng sản xuất đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài. - Tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ sinh học, trở thành động lực thúc đẩy trong quá trình phát triển thủy sản. 4. Thách thức - Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng nhóm ngành mà Vùng cũng có lợi thế phát triển như du lịch, công nghiệp hóa dầu, cảng biển và quá trình đô thị hóa tạo nên mâu thuẫn trong sử dụng các nguồn lực để phát triển thủy sản (mặt đất, mặt nước, nguồn nước, vốn, lao động). - Tranh chấp chủ quyền trên biển cản trở hoạt động khai thác hải sản của ngư dân miền Trung tại các ngư trường truyền thống xa bờ. - Điều kiện khí hậu và tự nhiên rất khắc nghiệt, nhiều thiên tai nhất là bão, lũ lụt, hạn hán, các cửa sông lại hay bị bồi lấp làm cản trở di chuyển tàu thuyền, gây khó khăn cho hoạt động đánh bắt hải sản trên biển, đồng thời chênh lệch nhiệt độ khá lớn làm nước bốc hơi nhanh, tôm cá dễ bị sốc và chết gây thiệt hại cho hoạt động nuôi trồng thủy, hải sản. NGƯ TRƯỜNG HOÀNG SA TRƯỜNG SA Thành Lập Nghiệp Đoàn Nghề Cá tại 2 ngư trường truyền thống Hoàng Sa – Trường Sa Chiều nay (8/11), Liên đoàn Lao động tỉnh Khánh Hòa tổ chức Lễ thành lập Nghiệp đoàn nghề cá xã Phước Đồng và Nghiệp đoàn nghề cá phường Vĩnh Thọ, TP Nha Trang với sự tham gia của gần 40 chủ tàu và 200 ngư dân chuyên đánh bắt tại ngư trường truyền thống Hoàng Sa- Trường Sa. Hai nghiệp đoàn nghề cá mới thành lập có nhiệm vụ tập hợp ngư dân thường xuyên khai thác trên các vùng biển xa như: Trường Sa, Hoàng Sa, DK1, qua đó tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đoàn kết, giúp đỡ nhau trong bám biển, khai thác hải sản. Dịp này, Quỹ Tấm lòng Vàng- Báo Người Lao động đã chuyển 1 tỷ đồng từ đóng góp của đồng bào trong cả nước hỗ trợ ngư dân tỉnh Khánh Hòa; Liên đoàn Lao động tỉnh Khánh Hòa trích 270 triệu đồng để hỗ trợ các chủ tàu bị nạn, ngư dân gặp khó khăn. Ông Nguyễn Hòa, Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Khánh Hòa cho biết, tỉnh này đã thành lập 4 nghiệp đoàn tập hợp gần 500 ngư dân và 100 tàu cá: “Tập hợp bà con ngư dân đang đánh bắt ở khu vực Trường Sa- Hoàng Sa để các ngư dân giúp nhau vươn khơi, bám biển trước sóng gió, thiên tai, địch họa... gây khó khăn cho bà con. Tổ chức công đoàn hỗ trợ cho ngư dân ngư cụ, các phương tiện khác như áo phao, tủ thuốc y tế, máy móc thông tin liên lạc” ... Mùa biển mới ở Trường Sa Rất nhiều ngư dân ở Quảng Ngãi và Bình Định thu lợi hàng tỷ đồng trong mùa biển vừa rồi, nhờ lòng dũng cảm, kinh nghiệm trên biển. Và quan trọng nhất, họ đã chuyển nghề đúng lúc để có được lượng cá lớn từ ngư trường trên biển đảo quê hương. Tàu QNg 907068 TS của ngư dân Phạm Hết thống kê thu nhập trong 4 phiên biển: 200 triệu - 250 triệu - 350 triệu - 400 triệu đồng. Nhìn chung, cứ mỗi phiên biển, thu nhập lại tăng lên ... Giao thông vận tải Thế mạnh về vị trí và cơ sở hạ tầng: Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có vị trí địa lý kinh tế rất thuận lợi, nằm trên trục các đường giao thông bộ, sắt, hàng không và biển. Vùng gần thành phố Hồ Chí Minh và khu tam giác kinh tế trọng điểm miền Đông Nam Bộ; là cửa ngõ của Tây Nguyên, của đường xuyên Á ra biển nối với đường hàng hải quốc tế. Việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải tạo ra thế mở cửa hơn nữa cho vùng và cho sự phân công lao động mới. Việc nâng cấp quốc lộ 1 và đường sắt Bắc - Nam không chỉ làm tăng vai trò trung chuyển của Duyên hải miền Trung, mà còn giúp đẩy mạnh sự giao lưu giữa các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ với thành phố Đà Nẵng (một trung tâm phát triển ở phía bắc của vùng) và với Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, Đông Nam Bộ nói chung. Các dự án phát triển các tuyến đường ngang (như các đường 19, 26) nối Tây Nguyên với các cảng nước sâu, giúp mở rộng các vùng hậu phương của các cảng này và giúp cho Duyên hải Nam Trung Bộ mở cửa hơn nữa. Duyên hải Nam Trung Bộ sẽ có vai trò quan trọng hơn trong quan hệ với các tỉnh Tây Nguyên, khu vực Nam Lào và Đông Bắc Thái Sân Bay Đà Nẵng Hệ thống sân bay của vùng đã được khôi phục, hiện đại, gồm sân bay quốc tế Đà Nẵng và các sân bay nội địa như Chu Lai, Quy Nhơn, Cam Ranh, Tuy Hoà. Nam Trung bộ có sân bay Đà Nẵng là một trong 3 cảng hàng không quốc tế lớn của Việt Nam. Vùng còn có nhiều sân bay nội địa như Phú Cát (Bình Định), Nha Trang, Cam Ranh (Khánh Hoà) cùng hàng ngàn km đường bộ, đường sắt. Về đường biển, vùng có nhiều cảng biển quan trọng như cảng Đà Nẵng, Tiên Sa, Liên Chiểu (Đà Nẵng), Kỳ Hà (Quảng Nam) tạo nên hệ thống cảng biển phục vụ cho phát triển kinh tế vùng và tạo thành con đường huyết mạch trên biển thông thương với khu vực và thế giới. Vùng có nhiều khu kinh tế mở như Chu Lai (Quảng Nam), Dung Quất (Quảng Ngãi), Nhơn Hội (Bình Định) với cơ sở hạ tầng tương đối hoàn thiện. DU LỊCH Vùng này có 3 địa bàn trọng điểm du lịch là: Đà Nẵng - Quảng Nam gắn với Sơn Trà, Hải Vân, Hội An, Mỹ Sơn Bình Định - Phú Yên - Khánh Hòa gắn với các bãi biển Phương Mai, Đầm Ô Loan, vịnh Nha Trang, Cam Ranh Cáp treo Bà Nà Bình Thuận gắn với biển Mũi Né, đảo Phú Quý Vùng này có những bờ biển đẹp như Quy Nhơn, Ninh Chữ, Sa Huỳnh và nhiều suối nước nóng. Ngoài khơi nhiều đảo đá lớn, nhỏ. Duyên hải Nam Trung Bộ có tiềm năng du lịch dồi dào, với sự kết hợp hài hoà giữa biển và núi, có nhiều vịnh đẹp như Dung Quất, Đại Lãnh, Văn Phong. Nơi đây có nhiều di tích như thành cổ Trà Bàn và các tháp Chàm. Đặc biệt, Đà Nẵng - Quảng Nam là vùng đất gắn liền với văn hoá Sa Huỳnh, có nhiều cung điện, đền đài, thành quách uy nghi, tráng lệ, vẫn còn để lại nhiều dấu tích ở Mỹ Sơn, Trà Kiệu... Ngoài ra còn các danh lam thắng cảnh Bà Nà, Ngũ Hành Sơn, Cù Lao Chàm, đèo Hải Vân,... các bãi biển Mỹ An, Non Nước với dải cát trắng mịn kéo dài Đứng về góc độ du lịch, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có vị trí thuận lợi trong mối liên kết vùng để phát triển du lịch. Du lịch Duyên hải Nam Trung Bộ nằm trên tuyến du lịch xuyên Việt, là cầu nối du lịch Bắc - Nam; điểm đầu của các tuyến du lịch “Con đường Di sản Miền Trung”, “Con đường xanh Tây Nguyên”, "Cửa ngõ miền Đông Nam bộ", đầu cầu và cũng là cửa ngõ ra biển Đông của hành lang du lịch Đông - Tây. Đây cũng là khu vực có nhiều tiềm năng nổi bật về du lịch biển, du lịch sinh thái và du lịch văn hoá. Vì vậy, sự phát triển du lịch vùng Duyên hải Nam Trung Bộ không chỉ có ý nghĩa động lực đối với du lịch các tỉnh trong vùng nói riêng mà còn đối với du lịch cả nước nói chung. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ với có hệ thống tài nguyên du lịch hấp dẫn về tự nhiên và văn hóa, bao gồm: - Các tài nguyên tự nhiên gắn với biển, đảo duyên hải. - Các di sản văn hóa gắn với văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chămpa. - Di tích lịch sử gắn với khởi nghĩa Tây Sơn, di tích lịch sử cách mạng gắn với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. - Bản sắc văn hóa các dân tộc ít người phía Đông Trường Sơn. Bãi biển Nha Trang Duyên hải Nam Trung Bộ cũng là nơi được thiên nhiên ưu đãi và ban tặng nhiều sản vật có giá trị và nhiều đặc sản tự nhiên phục vụ văn hóa ẩm thực như mỳ Quảng (Quảng Nam), cá bống sông Trà, tỏi Lý Sơn (Quảng Ngãi), rượu Bàu Đá (Bình Định), bánh canh Phú Yên, nem Ninh Hòa (Khánh Hòa), thanh long (Bình Thuận) v.v... Tài nguyên du lịch biển, đảo và di tích lịch sử văn hoá dân tộc là nguồn lực quan trọng, trong đó nổi bật là dải Đà Nẵng - Non Nước - Hội An (Quảng Nam, Đà Nẵng) và Nha Trang - vịnh Cam Ranh (Khánh Hoà), đặc biệt vịnh Cam Ranh có thể phát triển thành điểm du lịch biển, đảo có tầm cỡ quốc tế. Các điểm tài nguyên nổi bật: Bà Nà, Sơn Trà, Non Nước (Đà Nẵng); Hội An, Mỹ Sơn, Cù Lao Chàm (Quảng Nam); Mỹ Khê, Trường Lũy, Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phương Mai, Quy Nhơn (Bình Định), Vịnh Xuân Đài, Đầm Ô Loan (Phú Yên); Nha Trang, Cam Ranh, Trường Sa (Khánh Hòa); Cà Ná, Ninh Chữ, Vĩnh Hy (Ninh Thuận), Phan Thiết, Mũi Né, đảo Phú Quý (Bình Thuận).v.v... Với vị trí địa lý quan trọng, và những đặc thù về tài nguyên, Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 định hướng vùng Duyên hải Nam Trung Bộ là một trong bảy vùng du lịch cả nước, giữ vai trò hết sức quan trọng đối với du lịch Việt Nam. Thời gian qua du lịch vùng Duyên hải Nam Trung Bộ đã được các cấp chính quyền ở các địa phương trong vùng quan tâm đầu tư khai thác có bước phát triển và đóng góp nhất định vào sự nghiệp phát triển du lịch chung. Năm 2011, là năm du lịch quốc gia Phú Yên với chủ đề du lịch biển đảo, ngành du lịch các địa phương trong vùng đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Theo số liệu thống kê từ các địa phương, năm 2012 các tỉnh trong vùng đón được hơn 2 triệu (2.080.480) lượt khách du lịch quốc tế và hơn 7 triệu (7.072.320) lượt khách nội địa, thu nhập du lịch đạt hơn 5.600 (5.622) tỷ đồng. Sự phát triển du lịch đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và làm thay đổi diện mạo của nhiều tỉnh trong vùng, tạo nên nhiều công ăn việc làm, đóng góp tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào vùng sâu vùng xa, củng cố vững chắc quốc phòng - an ninh vùng biển và hải đảo. Những kết quả thu được của sự phát triển du lịch ở các tỉnh vùng Duyên hải Nam Trung Bộ trong thời gian vừa qua thực sự đáng ghi nhận. Trong sự phát triển du lịch vùng có sự đóng góp của việc khai thác có hiệu quả tài nguyên du lịch biển đảo gắn với đặc trưng của các di sản văn hóa, tạo nên sự thu hút nhất định đối với khách du lịch trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, sự phát triển du lịch vùng vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm. Du lịch phát triển còn manh mún, chưa tương xứng với tiềm năng, thiếu tầm nhìn tổng thể và sự liên kết phát triển du lịch toàn vùng, ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định, bền vững. Đó là bài học kinh nghiệm không chỉ cho vùng Duyên hải Nam Trung Bộ mà còn cho các vùng khác thuộc lãnh thổ du lịch Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Khoáng Sản Nhà máy lọc dầu Dung Quất Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ khoáng sản không nhiều. Các loại khoáng sản như: sa khoáng nặng, cát trắng ở Khánh Hòa, vàng ở Bồng Miêu, than ở Nông Sơn, đá ốp lát, nước khoáng, vàng, cao lanh, ti tan và dầu khí trên thềm lục địa ở cựcNam Trung Bộ Với các nguồn tài nguyên khoáng sản tuy không nhiều nhưng nơi đây cũng đã tiến hành khai thác và hình thành các trung tâm công nghiệp với quy mô trung bình và nhỏ phân bố dọc ven biển như: lớn nhất là Đà Nẵng, tiếp đến là Dung Quất, Nha Trang, Quy Nhơn, Phan Thiết công nghiệp chủ yếu là cơ khí, chế biến nông-lâm-thuỷ sản, sản xuất hàng tiêu dùng, VLXD, hóa dầu. Bước đầu thu hút đầu tư nước ngoài vào hình thành các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất. Thủy điện Đa Nhim (Ninh Thuận) Khai thác cát thủy tinh ở Nha Trang Để phát triển công nghiệp cũng như phát triển các hoạt động kinh tế khác thì cần phát triển công nghiệp năng lượng, tuy nhiên nơi đây còn rất hạn chế về tài nguyên nhiên liệu, năng lượng: + Sử dụng điện lưới quốc gia từ đường dây 500 KV. + Tiềm năng thủy điện có thế xây dựng các nhà máy công suất trung bình và nhỏ tận dụng nguồn nước từ Tây Nguyên đưa xuống như thuỷ điện sông Hinh (Phú Yên), Hàm Thuận-Đa Mi (Bình Thuận), Vĩnh Sơn (Bình Định), A Vương (Quảng Nam), thủy điện Đa Nhim. + Dự kiến xây dựng nhà máy điện nguyên tử đầu tiên ở nước ta tại vùng này. Vựa muối tại Sa Huỳnh Do vùng địa lý khu vực này thời tiết gần như nắng nóng quanh năm, nhiệt độ không khí cao, hàm lượng muối trong nước biển cao, địa hình bằng phẳng, người dân lại có truyền thống kinh nghiệm lâu đời nên thuận lợi cho nghề làm muối. Hiện nay, việc sản xuất muối công nghiệp đem lại năng suất cao.Các vùng sản xuất muối nổi tiếng nơi đây như Cà Ná, Sa Huỳnh Đề cập đến vùng muối thuộc 3 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa có lợi thế về điều kiện tự nhiên để phát triển các đồng muối công nghiệp có năng suất chất lượng cao. Dù vậy tình hình sản xuất muối của diêm dân chủ yếu vẫn theo phương pháp thủ công, nên năng suất, chất lượng thấp, đời sống của người làm muối còn gặp nhiều khó khăn. Diện tích muối công nghiệp (chiếm 18,1% tổng diện tích muối), muối sạch còn chiếm tỷ lệ nhỏ, chưa được chú trọng đầu tư mở rộng sản xuất do vốn đầu tư lớn. Cơ sở hạ tầng đồng muối hiện đang xuống cấp nghiêm trọng đặc biệt hệ thống thủy lợi. Thị trường muối tiêu thụ muối còn gặp nhiều khó khăn nhất là muối của diêm dân. Báo cáo giới thiệu công nghệ sản xuất muối theo phương pháp kết tinh trên ruộng trải bạt đã tăng năng suất (từ 20 – 80%), chất lượng sản phẩm và giá bán cao hơn muối thường từ 10 – 20%. Dự kiến đến năm 2020 diện tích muối có 14.500 ha, sản lượng đạt 2 tiệu tấn. Trong đó diện tích muối công nghiệp có 5.500ha, tập trung ở Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa. Các đảo và quần đảo thuộc vùng Duyên hải Nam trung bộ Vùng duyên hải Nam Trung Bộ có hai quần đảo lớn xa bờ: quần đảo Hoàng Sa ( Đà Nẵng) và quần đảo Trường Sa (Khánh Hòa) cùng với nhiều đảo nhỏ ven bờ: đảo Bình Đa, đảo Bình Hưng (Khánh Hòa), đảo Phú Quý (Bình Thuận), đảo Lý Sơn, các đảo và quần đảo đều mang lại nhiều lợi ích cho kinh tế biển vùng này: đánh bắt gần bờ và xa bờ, du lịch biển đảo, khai thác các đặc sản, khoáng sản từ biển, giao thông vận tải biển và bảo vệ an ninh quốc cho đất nước ta tiêu biểu là hai quần đảo Hoàng Sa Trường sa. Quần đảo Hoàng Sa Quần đảo Hoàng Sa là một tập hợp trên 30 đảo san hô, cồn cát, ám tiêu (rạn) san hô nói chung (trong đó có nhiều ám tiêu san hô vòng hay còn gọi là rạn vòng) và bãi ngầm thuộc biển Đông, ở vào khoảng một phần ba quãng đường từ miền Trung Việt Nam đến phía bắc Philippines. Quần đảo trải dài từ 15°45′ đến 17°15′ Bắc và từ 111°00′ đến 113°00′ Đông, có bốn điểm cực bắc-nam-tây-đông lần lượt tại đá Bắc, bãi Ốc Tai Voi, đảo Tri Tôn và bãi Gò Nổi. Độ dài đường bờ biển đạt 518 km. Điểm cao nhất của quần đảo là một vị trí trênđảo Đá với cao độ 14 m (hay 15,2 m). Vùng biển Hoàng Sa trong biển Đông nằm trong vùng "xích đạo từ". Hiện nay, Biển Đông có vai trò quan trọng về phương diện kinh tế và quân sự đối với Trung Quốc, các nước Bắc Á và các quốc gia trong vùng Đông Nam Á, bao gồm Brunei,Campuchia, ĐôngTimor, Indonesia, Lào (không có lãnh hải), Malaysia, Myanma, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Biển Đông còn là thủy đạo nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương qua Eo biển Malacca. Mọi di chuyển bằng hàng hải giữa các quốc gia thuộc Vòng đai Thái Bình Dương với vùng Đông Nam Á, Ấn Độ, Tây Á, Địa Trung Hải và xuống châu Úc đều thường xuyên đi qua vùng biển này. Hoàng Sa là một quần đảo nằm trên thủy lộ đó. Những tranh chấp căng thẳng đã và đang xảy ra tại Hoàng Sa cho thấy việc kiểm soát Hoàng Sa vô cùng quan trọng trong việc nắm quyền kiểm soát thuỷ đạo quan trọng của Đông Nam Á và của thế giới. Điều này ảnh hưởng đến quyền tự do hàng hải của tất cả các quốc gia trên thế giới chứ không chỉ liên quan đến lợi ích riêng của các nước tham gia tranh chấp quần đảo Hoàng Sa. Ngoài ra, Biển Đông còn là nguồn cung cấp hải sản, dầu thô, và khí đốt rất đáng kể. Theo Cục Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), ở Biển Đông chỉ có khoảng 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ feet khối khí đốt tự nhiên. Các mỏ dầu và khí đốt tại đây thường nằm trong các vùng lãnh thổ không có tranh chấp, gần bờ biển của các quốc gia xung quanh biển Đông nhưng Biển Đông đóng góp tới 10% sản lượng cá đánh bắt được trên toàn cầu tạo ra giá trị hàng tỷ USD. Việc kiểm soát Hoàng Sa là lợi thế đối với việc giành quyền kiểm soát biển Đông và các nguồn tài nguyên tại đây. Quần đảo Trường Sa Quần đảo Trường Sa là một tập hợp gồm nhiều đảo san hô, cồn cát, rạn đá (ám tiêu) san hô nói chung (trong đó có rất nhiều rạn san hô vòng, tức rạn vòng hay còn gọi là ám tiêu s
File đính kèm:
- Tieu_luan_duyen_hai_nam_trung_bo_20150726_043932.docx