Sáng kiến kinh nghiệm: Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Tiếng Anh ở trường THCS - Nguyên Lê Hồng Vĩnh
II. THỰC TRẠNG VÀ PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG:
Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian để chuẩn bị cho một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các dẫn chứng sống động trên các slide trong các giờ học là một điều mà các giáo viên không muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều thời gian chuẩn bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với phấn trắng bảng đen thì hiệu quả mang lại chỉ có 40% - 50%, trong khi hiệu quả của phương pháp multimedia (nhìn - nghe) lên đến 70% -80%. Việc sử dụng phương pháp mới đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm power point, giáo viên cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau.
đó là vấn đề mà bất cứ một giáo viên nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy. Trong đề tài “Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Tiếng Anh ở trường THCS”, tôi sẽ đưa ra những ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình, cũng như một số tiết dạy tôi đã thử nghiệm trong thời gian vừa qua để cùng các bạn đồng nghiệp thảo luận tìm ra những giải pháp tốt nhất cho những tiết dạy ở các môn học mà đặc biệt là bộ môn Tiếng Anh. II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1. MỤC ĐÍCH: Đê tài: “Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Tiếng Anh ở trường THCS” giúp: - Vận dụng CNTT trong dạy học nhằm cải tiến phương pháp dạy học và nhằm để nâng cao chất lượng đào tạo. Trong đó, việc tích cực ứng dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại là nhân tố có tác động quan trọng nhất đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường trong thời gian qua - Vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại để đổi mới phương pháp dạy học đối với tất cả các môn học ở trường phổ thông. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: a. Phương pháp quan sát: Là phương pháp thu thập thông tin bằng cách tri giác trực tiếp b. Phương pháp tổng hợp tài liệu: Là phương pháp tìm hiểu những người đi trước đã thực hiện ứng dụng CNTT có liên quan đến đề tài và đã giải quyết như thế nào, liên quan đến đâu. c. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Là phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn tại trường, đem lý luận phân tích kinh nghiệm của thực tiễn rồi từ những phân tích đó rút ra kết luận những bài học thành công và thất bại, những phát hiện mới và phát triển để hoàn thiện. III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI: Đây là đề tài: “Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Tiếng Anh ở trường THCS” nên tôi tập trung nghiên cứu việc ứng dụng CNTT vào dạy học môn Tiếng Anh tại trường THCS Thuận Thới, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, đồng thời đưa ra một số kỹ năng, hình thức phù hợp trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở trường phổ thông hiện nay. 1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài này tôi đã thử nghiệm và thực hiện trong chương trình Tiếng Anh 6 và 9. 2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này tôi đã thử nghiệm trong 6 lớp 6A1, 2, 3 và 9A1, 2, 3 tại trường THCS Thuận Thới. 3. Thời gian nghiên cứu: năm học: 2014 – 2015 (Lớp 6A1, 2, 3 và 9A1, 2, 3). B. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ: Mặc dù bài giảng điện tử (BGĐT) chưa được các trường học đón nhận rộng rãi, chưa thực sự phổ biến trong những năm qua, nhưng bước đầu nó đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học và cách giảng dạy truyền thống. Thực ra, muốn click chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì người dạy cũng phải chịu bỏ công tìm hiểu, chuẩn bị nội dung, làm quen với cách giảng bài mới này. Cụ thể, người thầy cần phải: - Có một ít kiến thức về sử dụng máy tính. - Biết sử dụng phần mềm PowerPoint. - Biết cách truy cập Internet. - Có khả năng sử dụng một số phần mềm chỉnh sửa ảnh, làm các ảnh động, cắt các file âm thanh. Trong những năm học gần đây, nhiều quan niệm, phương pháp dạy học mới đã và đang được nghiên cứu, áp dụng ở trường phổ thông như: dạy học nêu vấn đề, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, dạy học lấy học sinh làm trung tâm, dạy học theo dự án, dạy học với sự hỗ trợ của CNTT. tất cả đều nhằm mục đích tích cực hoá hoạt động của học sinh, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh. Đặc biệt việc ứng dụng CNTT để xây dựng bài giảng điện tử hay giáo án điện tử các môn nói chung, dạy học Tiếng Anh nói riêng, đã và đang được xem là một trong những công cụ đem lại hiệu qủa tích cực trong việc đổi mới việc dạy và học. II. THỰC TRẠNG VÀ PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG: Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian để chuẩn bị cho một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các dẫn chứng sống động trên các slide trong các giờ học là một điều mà các giáo viên không muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều thời gian chuẩn bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với phấn trắng bảng đen thì hiệu quả mang lại chỉ có 40% - 50%, trong khi hiệu quả của phương pháp multimedia (nhìn - nghe) lên đến 70% -80%. Việc sử dụng phương pháp mới đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm power point, giáo viên cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau. Chính vì những khó khăn trên mà trong những năm học qua các giáo viên chỉ ứng dụng CNTT khi có nhu cầu. Tức là chỉ có thao giảng mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất đối phó. Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Mục đích sử dụng máy tính phục vụ cho công tác giảng dạy chỉ được áp dụng trong các tình huống này. III. NHỮNG BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1. KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG ĐẦU NĂM HỌC: Để thực hiện được đề tài này ngay từ đầu năm học 2014 -2015 tôi đã tiến hành kiểm tra, khảo sát chất lượng bộ môn của 6 lớp mình dạy là 6A1, 2, 3 và 9A1, 2, 3. Kết quả khảo sát như sau: Lớp SS Nữ Giỏi Khá TB Yếu Kém 6A1 25 13 3 8 8 5 1 6A2 21 12 2 6 5 7 1 6A3 24 12 2 5 10 5 2 9A1 29 13 0 4 15 8 2 9A2 26 13 0 8 11 5 2 9A3 27 13 0 3 18 5 1 Tổng 152 76 7 34 67 35 9 Sau khi cho thấy kết quả như trên tôi đã quyết định thực hiện các dự kiến của mình trong việc ứng dụng CNTT nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. 2. SỬ DỤNG PHẦN MỀM POWER POINT VÀO VIỆC XÂY DỰNG BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ MÔN TIẾNG ANH Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG: Để thiết kế bài giảng điện tử trong dạy học các bộ môn ở trường phổ thông, giáo viên có thể chọn lựa nhiều phần mềm khác nhau như: Flash, PowerPoint, Violet, LectureMaker kết hợp với các phần mềm bổ trợ khác. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc trưng, yêu cầu của bộ môn Tiếng Anh cũng như khả năng tiếp cận của giáo viên, việc lựa chọn phần mềm PowerPoint qua thực tế sử dụng đã khẳng định được ưu thế so với các phần mềm khác. PowerPoint là phần mềm đồ họa diễn hình có trong bộ Microsoft Office. Phần mềm PowerPoint hầu như đã hiện diện sẵn trong hầu hết máy tính của người sử dụng Việt Nam và giao diện của nó cũng rất quen thuộc khi phần lớn giáo viên biết sử dụng Word để đánh văn bản. Phần mềm Powerpoint có thể đáp ứng tốt nhiều yêu cầu khác nhau trong dạy học Tiếng Anh ở trường phổ thông: từ việc xây dựng BGĐT của bài nghiên cứu kiến thức mới, cho đến khâu củng cố, ôn tập, sơ kết, tổng kết, kiểm tra đánh giá và cả hoạt động ngoại khóa. * Khởi động phần mềm PowerPoint: Bước 1: Nhấp vào nút Start trên thanh tác vụ Bước 2: Trỏ vào Progamme Bước 3: Trỏ vào Microsoft Office Bước 4: Nhấp vào Microsoft Office PowerPoint * Phần mềm này có thể giúp giáo viên: - Dễ dàng chèn nội dung văn bản (Text), hình ảnh, video clip, âm thanh (Insert Picture/ Movie/ Sound) làm cho các kênh thông tin, video, tranh ảnh trở nên đa dạng, phong phú, sinh động. VD: Trong Unit 5, Unit 6: Getting Started – Listen and Read (English 9). Để dạy từ mới cho học sinh dễ hiểu như các từ: a town crier, a viewer, a seashore, a garbage dump giáo viên có thể tìm những hình ảnh có sẵn, hoặc sưu tầm trên Internet để giới thiệu cho các em hoặc có thể dùng video clip liên quan đến những từ vựng trên. - Tạo các liên kết (Hyperlink) linh hoạt, cho phép kết nối một nội dung bất kỳ trên một slide của giáo án điện tử đến một trang Web trên Internet nếu máy tính có nối mạng hay đến bất kỳ một tập tin nào trong máy tínhđể tìm kiếm thông tin, mở rộng nội dung đang trình bày hoặc sử dụng nút kích hoạt - Trigger để bật / tắt tức thì các dạng tư liệu ngay trên slide đang trình chiếu nhằm bổ sung, cung cấp thông tin, hay tiến hành so sánh, đối chiếu nhận thức của học sinh. - Dễ dàng tạo và chèn các dạng ký hiệu, biểu tượng thích hợp có sẵn trong Auto Shapes với các định dạng theo điểm, theo đường, theo diện tích và có thể tăng giảm kích cỡ, thay đổi hướng các ký hiệu tùy ý. - Tạo các hiệu ứng hoạt hình sinh động cho các đối tượng văn bản, hình ảnh, biểu tượng, sơ đồ, bảng biểu là một trong những chức năng ưu thế của Powerpoint. Từ Menu Slide Show > Custom Animation >Add Effect giáo viên có thể chọn nhiều hiệu ứng khác nhau cho đối tượng đã được chèn trên Slide. Trong thẻ Add Effect, giáo viên chỉ nên chọn dạng hiệu ứng Entrance, trong dạng này có khoảng hơn 50 kiểu hiệu ứng cụ thể, nhưng chỉ có một số kiểu hiệu ứng thuộc mục Basic, Subtle là phù hợp với yêu cầu xây dựng BGĐT, có thể biểu hiện tốt mục đích sư phạm. Chẳng hạn như khi muốn trình chiếu một đối tượng mới trên slide nên chọn hiệu ứng Fader, Fly In, Wipe, Diamond, Dissolve In Tuy nhiên khi ứng dụng tiện ích của Powerpoint vào việc thiết kế BGĐT người giáo viên cần phải chú ý đến những hạn chế dễ mắc phải, đó là: - Không nên quá lạm dụng đến các hiệu ứng, kỹ thuật trình diễn trên bài giảng điện tử ví dụ như: tạo các hiệu ứng “bay nhảy” kèm theo âm thanh, trang trí các slide với màu sắc sặc sỡ, loè loẹt, kết nối với các phim, ảnh lôi cuốn người học, nhưng chuyển tải nội dung rất ít, có khi phản tác dụng giáo dục, lựa chọn nhiều background, phông chữ, màu sắc khác nhau thiếu tính nhất quán, ít hài hòa và nhất là không thể hiện được tính sư phạm trong cả hình thức lẫn nội dung trình bày. - Các dạng thông tin trình bày trên slide của một số bài giảng điện tử còn nghèo nàn, chủ yếu là trình bày một văn bản để trình chiếu trên màn hình thay cho việc ghi chép, mà chưa chú ý đến kiến thức cơ bản, trọng tâm hay sơ đồ hóa các nội dung văn bản. Từ đó, những kiến thức còn đọng lại nơi học sinh sau giờ học không rõ ràng, thiếu tính hệ thống và không bền vững. 3. QUY TRÌNH XÂY DỰNG MỘT BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ: Để đạt được một bài học Tiếng Anh hay một môn học khác hiệu qủa, giáo viên cần tuân thủ quy trình xây dựng BGĐT gồm các bước sau: - Xác định mục tiêu bài học - Lựa chọn kiến thức cơ bản, xác định đúng những nội dung trọng tâm. - Mutimedia hoá từng đơn vị kiến thức. - Xây dựng thư viện tư liệu. - Lựa chọn ngôn ngữ hoặc các phần mềm trình diễn để xây dựng tiến trình dạy học thông qua các hoạt động cụ thể. - Chạy thử chương trình, sửa chữa và hoàn thiện. a. Xác định mục tiêu bài học Trong dạy học hướng tập trung vào học sinh, mục tiêu phải chỉ rõ học xong bài, học sinh đạt được cái gì. Mục tiêu ở đây là mục tiêu học tập, chứ không phải là mục tiêu giảng dạy, tức là chỉ ra sản phẩm mà học sinh có được sau bài học. Đọc kĩ sách giáo khoa, kết hợp với các tài liệu tham khảo để tìm hiểu nội dung của mỗi mục trong bài và cái đích cần đạt tới của mỗi mục. Trên cơ sở đó xác định đích cần đạt tới của cả bài về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Đó chính là mục tiêu của bài. b. Lựa chọn kiến thức cơ bản, xác định đúng những nội dung trọng tâm. Sau khi đã có các thư viện tư liệu, giáo viên cần lựa chọn ngôn ngữ hoặc các phầm mềm trình diễn thông dụng để tiến hành xây dựng giáo án điện tử. Trước hết cần chia quá trình dạy học trong giờ lên lớp thành các hoạt động nhận thức cụ thể. Dựa vào các hoạt động đó để định ra các slide (trong PowerPoint) hoặc các trang trong Frontpage. Sau đó xây dựng nội dung cho các trang (hoặc các slide). Tuỳ theo nội dung cụ thể mà thông tin trên mỗi trang/slide có thể là văn bản, đồ hoạ, tranh ảnh, âm thanh, video clip... c. Mutimedia hoá từng đơn vị kiến thức. Đây là bước quan trọng cho việc thiết kế bài giảng điện tử, là nét đặc trưng cơ bản của bài giảng điện tử để phân biệt với các loại bài giảng truyền thống, hoặc các loại bài giảng có sự hỗ trợ một phần của máy vi tính. Việc multimedia hoá kiến thức được thực hiện qua các bước: - Chọn lựa các phần mềm dạy học có sẵn cần dùng đến trong bài học để đặt liên kết. - Phân loại kiến thức được khai thác dưới dạng văn bản, bản đồ, đồ hoạ, ảnh tĩnh, ảnh động, phim, âm thanh. - Xử lý các tư liệu thu được để nâng cao chất lượng về hình ảnh, âm thanh. Khi sử dụng các đoạn phim, hình ảnh, âm thanh cần phải đảm bảo các yêu cầu về mặt nội dung, phương pháp, thẩm mỹ và ý đồ sư phạm. - Dữ liệu hoá thông tin kiến thức. - Tiến hành sưu tập hoặc xây dựng mới nguồn tư liệu sẽ sử dụng trong bài học. Nguồn tư liệu này thường được lấy từ một phần mềm dạy học nào đó hoặc từ internet, hoặc được xây dựng mới bằng đồ hoạ, bằng ảnh quét, ảnh chụp, quay video, bằng các phần mềm đồ hoạ chuyên dụng như Macromedia Flash. d. Xây dựng thư viện tư liệu. Sau khi có được đầy đủ tư liệu cần dùng cho bài giảng điện tử, phải tiến hành sắp xếp tổ chức lại thành thư viện tư liệu, tức là tạo được cây thư mục hợp lý. Cây thư mục hợp lý sẽ tạo điều kiện tìm kiếm thông tin nhanh chóng và giữ được các liên kết trong bài giảng đến các tập tin âm thanh, video clip khi sao chép bài giảng từ ổ đĩa nay sang ổ đĩa khác, từ máy này sang máy khác. e. Lựa chọn ngôn ngữ hoặc các phần mềm trình diễn để xây dựng tiến trình dạy học thông qua các hoạt động cụ thể. Sau khi đã có các thư viện tư liệu, giáo viên cần lựa chọn ngôn ngữ hoặc các phần mềm trình diễn thông dụng để tiến hành xây dựng giáo án điện tử. Trước hết cần chia quá trình dạy học trong giờ lên lớp thành các hoạt động nhận thức cụ thể. Dựa vào các hoạt động đó để định ra các slide trong PowerPoint hoặc các trang trong Frontpage. Sau đó xây dựng nội dung cho các các slide. Tuỳ theo nội dung cụ thể mà thông tin trên mỗi trang/slide có thể là văn bản, đồ hoạ, tranh ảnh, âm thanh, video clip. Đối với mỗi bài dạy nên dùng khung, màu nền thống nhất cho các slide, hạn chế sử dụng các màu quá chói hoặc quá tương phản nhau. Văn bản cần trình bày ngắn gọn cô đọng, chủ yếu là các tiêu đề và dàn ý cơ bản. Nên dùng một loại font chữ phổ biến, đơn giản, màu chữ được dùng thống nhất tuỳ theo mục đích sử dụng khác nhau của văn bản như câu hỏi gợi mở, dẫn dắt, hoặc giảng giải, giải thích, ghi nhớ, câu trả lời. Khi trình bày nên sử dụng sơ đồ khối để học sinh thấy ngay được cấu trúc logic của những nội dung cần trình bày. Thực hiện các liên kết hợp lý, logic lên các đối tượng trong bài giảng. Đây chính là ưu điểm nổi bật có được trong bài giảng điện tử nên cần khai thác tối đa khả năng liên kết. Nhờ sự liên kết này mà bài giảng được tổ chức một cách linh hoạt, thông tin được truy xuất kịp thời, học sinh dễ tiếp thu. f. Chạy thử chương trình, sửa chữa và hoàn thiện. Sau khi thiết kế xong, phải tiến hành chạy thử chương trình, kiểm tra các sai sót, đặc biệt là các liên kết để tiến hành sửa chữa và hoàn thiện. 4. KHAI THÁC TƯ LIỆU QUA INTERNET PHỤC VỤ CÁC BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ: Khai thác những tư liệu được lựa chọn sẽ làm cho bài giảng trở nên phong phú, sống động, hấp dẫn hơn, học sinh sẽ tiếp thu bài giảng một cách tự nhiên. Internet là một thành tựu có tính đột phá của nhân loại, là một công cụ vô cùng hiệu quả cho việc khai thác tư liệu phục vụ cho các bài giảng trên lớp. Khi tìm kiếm, lựa chọn tư liệu cho bài học điều quan trọng nhất là tính phù hợp. Tư liệu phù hợp là tư liệu liên quan đến nội dung bài giảng; có nội dung, hình thức đa dạng và lượng thông tin bổ sung vừa đủ không ít quá, cũng không quá nhiều để không làm loãng nội dung. Về nội dung, tư liệu phải liên quan đến nội dung bài giảng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm hướng tư duy học sinh đến các nhận định, bài học, nhân vật, sự kiện, địa danh, hiện vật, bài tập, mẫu câu... Về hình thức, nếu đã có một tư liệu là văn bản hay kiến thức thì tư liệu khác nên được cung cấp dưới dạng ảnh. Vì tư liệu là thông tin bổ sung nên những tư liệu ảnh là rất thích hợp vì nó thường mới, truyền đạt nhanh thông qua việc quan sát chứ không phải đọc hay giảng phù hợp với mục đích là tư liệu bổ sung. Về dung lượng, hiển nhiên thông tin và tư liệu chỉ được chiếm một tỷ lệ vừa đủ cả về thông tin và thời gian cung cấp thông tin. Tư liệu không thể lấn át nội dung chính của bài giảng mà nó bổ sung, làm cho kiến thức được cung cấp được hấp thụ dễ dàng và toàn diện hơn. Các web có ích trong việc tìm kiếm tư liệu dạy học: ( các dạng đề thi ) ( Học từ vựng qua ảnh) (Các loại sách, phần mềm sách) ( Phần mềm Tiếng Anh 6,7,8,9) ( Phần mềm + Bài tập các dạng ngữ pháp) (Tranh ảnh, bài tập dùng kèm ) (Kiểm tra nghe Tiếng Anh) (Bộ đề trắc nghiệm TA 9) IV. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG: Trong năm học 2014 – 2015 nhà trường đã tạo điều kiện cho mọi giáo viên tiếp cận cách sử dụng các thiết bị hiện đại, sử dụng phần mềm Power Point và một số phần mềm khác theo đặc trưng của từng bộ môn. Tùy theo đặc trưng của mỗi bộ môn và khả năng của từng giáo viên mà giáo viên có thể sử dụng các nội dung khác nhau của CNTT, hoặc các tiện ích khác nhau của các thiết bị dạy học. Do vậy, mặc dù chuẩn bị cho một tiết dạy BGĐT tốn nhiều thời gian và công sức hơn nhưng giáo viên ở tất cả các bộ môn đều hăng hái đăng ký, nhất là các môn: Văn, Tiếng Anh, Sử, Địa, GDCD, Toán... Kết quả là đến nay, phần lớn giáo viên đã soạn giáo án vi tính, một số thầy cô có thể sử dụng khá thành thạo phần mềm Power Point kết hợp cùng nhiều phần mềm khác để tự soạn giáo án điện tử. Nhiều giáo viên đã sử dụng tốt Internet để tìm kiếm thông tin, tải bản đồ, hình ảnh, hình mẫu đưa vào minh họa trong bài giảng của mình, đã có rất nhiều tiết dạy bằng phương pháp dạy học mới với việc ứng dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại ở hầu hết các môn học. Các tiết học này đã tạo được hứng thú và sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với các em học sinh. Kết quả trong việc ứng dụng CNTT vào dạy học ở trường THCS Thuận Thới trong năm học 2014 - 2015 cụ thể như sau: + Tổng số tiết dạy có ứng dụng CNTT năm học 2014 -2015: Môn Tiếng Anh 273 + Chất lượng bộ môn Tiếng Anh - Khối 6, 9 mà tôi trực tiếp giảng dạy trong năm học 2014 – 2015: Lớp SS Giỏi Khá TB Yếu Kém Ghi chú 6A1 25 3 8 8 5 1 Đầu năm học 2014-2015 6A2 21 2 6 5 7 1 6A3 24 2 5 10 5 2 9A1 29 0 4 15 8 2 9A2 26 0 8 11 5 2 9A3 27 0 3 18 5 1 Tổng 152 7 34 67 35 9 6A1 25 6 6 12 1 0 HKI Năm học 2014-2015 6A2 21 4 5 11 1 0 6A3 24 2 12 7 3 0 9A1 29 0 12 16 1 0 9A2 26 1 15 10 0 0 9A3 26 1 9 15 1 0 Tổng 151 14 59 71 7 0 6A1 25 9 10 6 0 0 Cuối năm Năm học 2014-2015 6A2 21 3 9 9 0 0 6A3 23 4 12 6 1 0 9A1 29 1 13 14 1 0 9A2 26 1 15 10 0 0 9A3 25 3 5 16 1 0 Tổng 149 21 64 61 3 0 C. PHẦN KẾT LUẬN I. Ý NGHĨA CỦA VIỆC SỬ DỤNG CNTT TRONG DẠY – HỌC: Sự phát triển nhanh chóng của ngành CNTT trong những năm gần đây với những tiện ích của nó đã và đang trở thành công cụ quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có giáo dục và đào tạo. Công nghệ thông tin- truyền thông là một trong những công cụ được sử dụng thực hiện đổi mới trong giáo dục đào tạo và đang được các nước trên thế giới quan tâm ứng dụng. Với sự hỗ trợ của máy tính người giáo viên có thể ứng dụng công nghệ vào thiết kế, xây dựng bộ câu hỏi học tập, các bài tập thực hành, trò chơi, thư viện thông tin cho học sinh. Việc giảng dạy bằng bài giảng điện tử có những ưu điểm của nó: - Đối với giáo viên, tuy phải đầu tư khá nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị một giáo án điện tử nhưng việc dạy học bằng giáo án điện tử giúp giáo viên hạn chế bớt phần thuyết giảng, có thời gian thảo luận và tăng cường kiểm soát đối với học sinh. Giáo án đện tử giúp đa dạng hoá việc cung cấp kiến thức cho học sinh thông qua các công cụ trình diễn, người giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một khối lượng hình ảnh, video, bài tập liên quan đến nội dung bài học mà học sinh được học, như vậy mà giờ học trở nên sôi nổi và sinh động hơn. - Đối với học sinh, việc học tập thông qua bài giảng điện tử tạo nhiều hứng thú cho các em trong học tập, các em được tiếp cận những kiến thức, các loại hình bài tập, trò chơi ứng dụng phong phú hơn, lớp học sinh động hơn, học sinh thu thập thông tin đủ hơn và in sâu hơn vào trong trí nhớ của các em. II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Sự bùng nổ c
File đính kèm:
- SKKN_20142015.docx