Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 1

1. Cơ sở lý luận:

Kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1 rất quan trọng, đó cũng là sự phản hồi của kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. nó thể hiện kết quả nhận biết các con chữ, các vần và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng và khả năng đọc từ đọc câu sau cùng là đọc một bài văn ngắn, một đoạn thơ ngắn.

Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng ghép từ, đọc câu còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm chuẩn, đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi và các em sẽ hiểu được tiếng, từ, câu mà các em viết .

2. Cơ sở thực tiễn:

Trong phạm vi cơ sở trường học nơi công tác, tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:

a) Thuận lợi:

- Giáo viên

+ Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn, tổ chức bồi dưỡng giáo viên, tổ chức những buổi học chuẩn kiến thức kỹ năng cho học sinh tiểu học Cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi , giảng dạy.

+ Sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường, tổ chức thao giảng, dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy.

Đội ngủ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có nhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt.

 

doc14 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 455 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng và khả năng đọc từ đọc câu sau cùng là đọc một bài văn ngắn, một đoạn thơ ngắn.
Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng ghép từ, đọc câu còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm chuẩn, đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi và các em sẽ hiểu được tiếng, từ, câu mà các em viết .
2. Cơ sở thực tiễn:
Trong phạm vi cơ sở trường học nơi công tác, tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
a) Thuận lợi:
- Giáo viên
+ Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn, tổ chức bồi dưỡng giáo viên, tổ chức những buổi học chuẩn kiến thức kỹ năng cho học sinh tiểu học Cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi , giảng dạy.
+ Sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường, tổ chức thao giảng, dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy.
Đội ngủ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có nhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt.
- Học sinh:
+ Ở độ tuổi 6-7 của học sinh lớp 1. Các em đa số còn rất ngoan, dễ vâng lời, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng
+ Có được sự quan tâm về việc học tập của con em mình của một số phụ huynh có ý thức trách nhiệm, không khoán trắng cho nhà trường cho giáo viên, mà tích cực tiếp tay với giáo viên trong việc học tập của con em mình như: Chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập, thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà.
b) Khó khăn: Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp một số khó khăn sau:
- Giáo viên
Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế, giáo viên còn tự làm đồ dùng dạy học nên còn mất thời gian đầu tư.
- Học sinh:
Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều, bên cạnh những em phát triển học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường, kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau chậm tiến.
- Còn một phần không ít phụ huynh ở vùng nông thôn sâu không và chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như nhắc nhở các em đọc bài học bài ở nhà.
3. Thực trạng tình hình học sinh qua điều tra kiến thức đầu năm:
Năm học 2017-2018 tôi tiếp tục được Nhà trường phân công dạy lớp 1A1, khi nhận lớp tôi đã tiến hành tìm hiểu để biết rõ số học sinh trong lớp đi học Mẫu Giáo và số học sinh không đi học Mẫu Giáo, hoặc đi học không đều. Tìm hiểu nguyên nhân, lý do vì sao học sinh đó không đi học mẫu giáo.
Trong các tiết học vần đầu tiên tôi đã tiến hành khảo sát xem sự nắm bắt, nhận diện bảng chữ cái và đọc các chữ cái đã nhận diện ở Mẫu Giáo. Kết quả khảo sát đã thu được như bảng sau:
- Tình hình học sinh lớp 1A1 sĩ số: 32 em.
+ Học sinh đi học Mẫu Giáo 25/32 em
Sĩ số
Nhận diện được,
đọc to rõ
Nhận diện được,
đọc nhỏ
Không nhận diện,
không đọc được
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ%
Số lượng
Tỉ lệ%
32
8
25,00
12
37,50
12
 37,50
Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái và đọc được các chữ cái trong bảng còn thấp, dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao, một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình của từng đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học sinh. Tổ chức tiết dạy sau cho các em cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi và các em sẽ thích học. Nhận thức rõ được các khó khăn cơ bản về học sinh. Tôi đã có biện pháp cụ thể sau:
4. Các giải pháp tiến hành giải quyết vấn đề:
4.1 Giải pháp tác động giáo dục:
- Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học.
- Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà của con em mình, đồng thời hướng dẫn học sinh cơ bản về cách đọc, cách phát âm chữ cái cách đánh vần vần, đánh vần tiếng, để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà.
- Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình vật thật để tiết dạy vui sinh động, đồng thời mượn đồ dùng học tập sách giáo khoa cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
- Xây dựng đôi bạn học những em học tốt và những em học chưa tốt kèm cặp nhau.
- Giáo viên có thể cho học sinh học chưa tốt, đọc chưa tốt để ngồi gần với một số học sinh đọc tốt. Bạn học tốt sẽ giúp bạn học chưa tốt khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh vần, đọc tiếng và giúp bạn trong thao tác cài chữ để ghép vần ghép tiếng.
- Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình những em đọc to rõ trôi chảy, những em đọc chậm và những em chưa đoc được bài. Các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 29 chữ cái đơn giản, giáo viên nên giành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 29 chữ cái cơ bản, cho các em học lại những nét cơ bản.
4.2. Phần học các nét cơ bản:
Giáo viên nên dạy thật kỹ, thật tỷ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này, phân theo cấu tạo và các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kễ cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.
Ví dụ: các nét chữ cơ bản và tên gọi:
+ Nét sổ; Nét ngang
+ Nhóm 1: Nét xiên: Nét xiên phải: Nét xiên trái
+ Nhóm 2: Nét móc: Nét móc xuôi; Nét móc ngược; Nét móc hai đầu.
+ Nhóm 3: Nét cong: Nét cong hở phải; Nét cong hở trái; Nét cong kín.
+ Nhóm 4: Nét khuyết: Nét khuyết trên; Nét khuyết dưới; Nét thắt
4.3. Phần học âm:
- Sau khi cho học sinh học thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái.
- Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái mới có thể ghép được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu. Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ cái và nếu con chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết - kiểu in khác nhau hay gặp trong sách báo như chữ a, chữ g thì tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó là chữ a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách báo trẻ dễ hiểu, dễ đọc không bị lúng túng.
Ví dụ:
+ Âm g gồm 2 nét: Nét cong kín nằm trên và nét khuyết dưới nằm bên dưới.
+ Âm a cũng có 2 nét: Nét cong kín và nét móc ngược.
- Từ việc học kỹ cấu tạo âm bởi những nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ như trên sẽ giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau về cả cấu tạo và tên gọi của 4 âm sau:
+ Âm d gồm 2 nét: Nét cong kín và nét móc ngược ở bên phải .
Đọc là: “ dờ ’’
+ Âm b gồm 2 nét, nét khuyết trên và nét thắt.
Đọc là: “ bờ ’’
Đối với 11 âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau ). Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống nhau và khác nhau của âm đó .
Ví dụ: 
+ th , ch , nh , ph , kh , gh , ngh
+ tr , gi , qu , ng
- Phân từng cặp: ch - tr, ng - ngh , g – gh, k– c, i – y, v – qu, s - x để giúp học sinh phát âm chính xác và viết chính tả .
- Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn tìm đủ cách để kiểm tra phát hiện sự tiến bộ của trẻ thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ Từ đó cũng cố thêm kiến thức cho học sinh.
4.4. Phần học vần:
Sang giai đoạn Học Vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm quen với các kiểu chữ hoa: Chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng. Để giúp trẻ học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen nhận diện, phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững.
Ví dụ : Bài 61 dạy vần ăm – âm
- Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần ăm: vần ăm gồm 2 âm ghép lại là âm ă và âm m.
- Vị trí âm trong vần: âm ă đứng trước âm m đứng sau.
- Đánh vần ăm:
- Hướng dẫn học sinh: ă – mờ - ăm. Đọc trơn vần: ăm
+ Kết hợp dùng bộ chữ học vần tiếng vần dành cho học sinh để ghép vần
* Yêu cầu các em: chọn đúng hai con chữ: ă và m. Ghép đúng vị trí: ă trước m sau. 
Nếu các em đã ghép đúng giáo viên hướng dẫn cách đánh vần và đọc trơn vần như trên. Các em sẽ nhận biết và đọc được vần ăm.
Với cách dạy phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài học sinh như thế.
Nếu được áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kỹ năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt. Trong các bài dạy vần, sách giáo khoa tiếng việt 1 có kèm theo các từ khóa, từ ứng dụng và các câu thơ câu văn ngắn để học sinh luyện đọc. Muốn cho học sinh đọc được các từ và câu ứng dụng trong bài giáo viên cho học sinh nắm chắc các vần sau đó cho các em ghép chữ cái đầu với vần vừa học để đọc tiếng, đọc từ của bài.
Ví dụ: dạy vần ăm có từ: nuôi tằm
Sau khi học sinh nắm vững vần ăm, nhìn và đọc được vần ăm một cách chắc chắn.
Giáo viên đưa ra từ nuôi tằm và giúp học sinh nhận biết: Âm gì đứng trước vần ăm (âm t) dấu thanh gì ở trên vần ăm ( dấu huyền ) vậy ta có thể ghép và đánh vần: tờ - ăm – tăm – huyền – tằm, đọc trơn tằm, ghép từ nuôi tằm.
Giáo viên có thể sử dụng tranh minh họa để cho học sinh hứng thú được nhìn vào tranh ảnh sinh động hoặc mẫu vật thật để gợi chí tò mò, ham học hỏi của học sinh giúp các em chủ động trong giờ học.
4.5. Phần tập đọc:
- Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh chưa hoàn thành. Học sinh hoàn thành đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn vào bài là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết tốt. Còn học sinh chưa hoàn thành, các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính xác vần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. Giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh. Giáo viên nên cho học sinh nhẫm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ.
Ví dụ: Dạy bài tập đọc Trường Em (sách giáo khoa Tiếng Việt 1Tập II )
+ Học sinh chưa đọc được tiếng trường, giáo viên nên cho các em đánh vần tiếng trường bằng cách phân tích như sau:
Giáo viên: Tiếng trường gồm có âm gì ghép với vần gì ? Có dấu thanh gì ?
Học sinh: Tiếng Trường gồm có âm tr ghép với vần ương, dấu thanh huyền.
Giáo viên: vậy ta đánh vần tiếng trường như thế nào ?
Học sinh: trờ – ương – trương – huyền – trường
Giáo viên: Đọc trơn tiếng này thế nào ?
Học sinh: trường.
Rồi cho học sinh đọc nối tiếp: trường em.
+ Học sinh không đọc được tiếng trường, Giáo viên nên cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường.
Giáo viên: Vần ương gồm có mấy âm?
Học sinh: Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm ng.
Giáo viên: Vị trí các âm trong vần thế nào?
Học sinh: Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau.
Giáo viên: Đánh vần và đọc trơn vần ương.
Học sinh: ươ – ng – ương, ương.
Giáo viên: thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên vần ương. Ta đánh vần, đọc trơn tiếng thế nào?
Học sinh: Trờ - ương – trương – huyền – trường và sau mỗi lần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đánh vần nhiều lần để khắc sâu vào trí nhớ học sinh.
4.6. Những phương tiện dạy học:
Trong từng tiết dạy môn Tiếng Việt, để giúp học sinh tích cực và ham học, giáo viên cần sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện hỗ trợ tiết dạy như sau:
- Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu.
- Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan sát tìm hiểu.
- Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên quan đến bài dạy.
4.7. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy:
Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy nhằm đạt được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương pháp nào được coi là tối ưu, giáo viên nên sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp để giúp học sinh mình đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một số phương pháp thường được áp dụng trong giờ học:
a. Phương pháp đàm thoại, vấn đáp:
Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
Ví dụ: chữ này là chữ gì ? (a, b, d, g, h,)
Có tiếng này em đánh vần như thế nào? chanh
Học sinh (chờ - anh – chanh)
Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dể nghe, nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu. Hãy ôn tồn dẫn dắt học sinh từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng từng câu trong mỗi bài.
b. Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh:
Trong tiết dạy tôi thường chú ý học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm, đọc chưa tốt để gọi các em đọc bài, đối với học sinh đọc tốt tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn, còn đối với học sinh đọc chưa tốt, tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “Cố lên rồi các em sẽ đọc tốt như các bạn, nếu các em cố gắng đọc bài nhiều ở lớp cũng như ở nhà”.
Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi mời các bạn đọc chưa tốt, lên bàn giáo viên để chỉ các em đọc bài, tôi giành thời gian cho đối tượng này hơn, như cùng đọc bài với các em trong giờ ra chơi (nhưng vẫn đảm bảo thời gian cho các em vui chơi)
Khi các em có biểu hiện tiến bộ, tôi thường khen thưởng các em bằng những phần quà nho nhỏ như: cây viết chì, viên phấn, cục tẩy đẹp Để các em cố gắng và thích thú hơn nữa.
c. Phương pháp học nhóm:
Như đã nói ở trên, tôi cho học sinh đọc tốt kèm học sinh đọc chưa tốt, em đọc tốt ngồi gần em đọc chưa tốt để để giúp bạn học tập ở lớp. Còn khi về nhà tôi phân công và giao nhiệm vụ cho em đọc chưa tốt đem sách đến để cùng học, cùng đọc bài với bạn đọc tốt gần nhà nhất và cho bạn đọc tốt báo cáo với cô: chiều hôm qua bạn A có đến để học bài với em hay không? Nếu có sẽ được cô khen bạn A ngoan, nếu không cô sẽ giữ bạn A lại để học với cô trong giờ ra chơi hoặc về muộn hơn so với các bạn để học bù lại.
d. Phương pháp tổ chức các trò chơi:
Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia.
Ví dụ trò chơi “ Ai nhanh – Ai đúng ”. Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là tốt và tôi thường hay chọn các học sinh đọc chưa tốt để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
đ. Phương pháp nhận xét nêu gương:
Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò truyện với học sinh đọc chưa tốt để dẫn dắt các em hơn cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn đọc tốt trong lớp.
Ví dụ: Bạn kim Nguyên, bạn Kiều Thư, bạn Mỹ Ái đọc tốt, đọc trôi chảy vì các bạn ấy chăm chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà, ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc bài và luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt, đọc hay hơn. Các bạn luôn thi đua với nhau xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em sẽ cũng đọc tốt như các bạn ấy nếu có cố gắng đọc nhiều, như các bạn: đọc chưa thông đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm, nhẩm xong đọc to lên và cứ thế và đọc mãi, đọc đi đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được ngay mới thôi.
Tóm lại để học sinh đọc đúng, cần phải có sự kết hợp các biện pháp nêu trên, người giáo viên phải lập kế hoạch từ năm học, họp phụ huynh đề nghị mỗi gia đình phải chuẩn bị cho con em mình một góc học tập, yêu cầu phụ huynh thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn học sinh luyện đọc, luyện viết để các em nhớ lâu hơn.
5. Thực nghiệm và kết quả thực nghiệm:
5.1 Mục đích thực nghiệm:
Nhằm đánh giá đúng tính khả thi của vấn đề nghiên cứu “ Một số biện pháp giúp học sinh rèn kỹ năng đọc đúng” đã đưa ra.
5.2 Giáo án thực nghiệm:
 Môn: Tập Đoc
 Bài: Quà của bố
I. MUC TIÊU:	
- Đọc trơn cả bài tập đọc Quà của bố. Đọc đúng các từ ngữ: lần nào, luôn luôn, về phép, vững vàng,Bước đầu biết nghỉ hơi ở chỗ cuối mỗi dòng thơ, khổ thơ.
- Hiểu nội dung bài: Bố là bộ đội ngoài đảo xa, bố rất nhớ và yêu em. 
- Trả lời được câu hỏi 1, 2 (SGK).
- Học thuộc lòng một khổ của bài thơ.
- Một số học sinh học thuộc lòng cả bài thơ.
II. ĐỒ DÙNG DẠY- HỌC:
- GV: Tranh minh hoạ SGK.
- HS: Bảng con, SGK.
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
Tiết 1
1. Ổn định:
2. Kiểm tra bài cũ: 	
- Gọi HS đọc bài: Ngôi nhà và trả lời câu hỏi.
1. Ở ngôi nhà mình, bạn nhỏ:
- Nhìn thấy gì ?
- Nghe thấy gì ?
- Ngửi thấy gì ?
- Nhận xét, tuyên dương.
3. Bài mới: 
 Giới thiệu:
- Cho HS xem tranh GV liên hệ giới thiệu, ghi tựa bài: Quà của bố.
 Giảng bài:
 Luyện đọc tiếng, từ:
- GV đọc mẫu: giọng chậm rãi, tình cảm, nhấn giọng ở khổ thơ 2 .
- GV đọc mẫu từ ngữ: lần nào, về phép, luôn luôn, vững vàng ......
+ Chỉnh sửa phát âm cho HS.
 - Giải thích từ: vững vàng, đảo xa.
 HD luyện đọc dòng thơ:
- HD đọc từng dòng thơ.
- HD đọc trơn và nối tiếp nhau đọc các dòng thơ: 1, 2, 3, 4.
+ Chỉnh sửa phát âm cho HS.
Luyện đọc đoạn, bài:
- HD chia khổ thơ: 3 khổ thơ.
- HD cho HS đọc theo nhóm : 4 HS.
- Tổ chức cho HS thi đọc bài giữa các nhóm.
+ Nhận xét giọng đọc của nhóm.
- HD đọc cả bài: đọc to, đọc rõ ràng.
+ Nhận xét giọng phát âm của HS.
 Ôn vần oan-oat:
 a.Tìm tiếng trong bài có vần oan :
- HDHS tìm.
+ Nhận xét sửa bài.
 b. Nói câu chứa tiếng có vần oan-oat : 
- HD đọc câu mẫu.
HD đọc câu chứa tiếng có vần oan-oat :
+ Nhận xét khen thưởng cách nói trọn câu của HS.
4. Củng cố:
- Xóa bảng hỏi lại tựa, cho HS đọc đồng thanh cả bài.
- Liên hệ giáo dục HS.
5. Nhận xét- dặn dò:
- Nhận xét lớp, tuyên dương.
- Chuẩn bị T2.
- Haùt.
- Ñoïc baøi: Ngoâi nhaø.
1. ÔÛ ngoâi nhaø mình, baïn nhoû:
- Nhìn thaáy: haøng xoan, hoa nôû
- Nghe thaáy: chim hoùt
- Ngöûi thaáy: Muøi raï thôm.
- HS lặp lại: Quaø cuûa boá.
- Chuù yù nghe ñoïc
- HS đọc từ ngữ: laàn naøo, veà pheùp, luoân luoân, vöõng vaøng. 
- Lớp, caù nhaân đọc từ ngữ
- HS đọc bài nối tiếp mỗi em một dòng thơ.
- Ñoïc noái tieáp theo nhoùm moãi nhoùm 1 khoå thô.
- HS ñoïc trôn caû baøi: caù nhaân, nhoùm, tổ lôùp.
- Ñoïc y/c 1 trong SGK.
 Tieáng : ngoan
- Ñoïc y/c 2 trong SGK:
+Vaàn oan: Chuùng em vui lieân hoan.
+Vaàn oat: Chuùng em thích hoaït ñoäng
HS nối tiếp nói câu chứa tiếng có vần oan/oat.
- Ñoïc ñoàng thanh caû baøi: Quaø cuûa bố
Học sinh lắng nghe.
5.3 Kết quả thực nghiệm:
- Trong quá trình áp dụng các biện pháp, phương pháp trên để rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1A1. Tôi đã nhận thấy các em học sinh không những thuộc hết bảng chữ cái mà nhiều em còn đọc rất tốt. Kết quả khảo sát lần 2 vào Giữa học kì I cho thấy kết quả rất khả quan như sau:
Sĩ số
Nhận diện được,
đọc to rõ
Nhận diện được,
đọc nhỏ
Nhận diện chậm
đọc rất chậm
Số lượng
Tỉ lệ%
Số lượng
Tỉ lệ%
Số lượng
Tỉ lệ%
32
20
62,5
8
25,0
2
 6,3
Đây là một kết quả rất đáng mừng, bù đắp cho công sức và sự kiên nhẫn của giáo viên đứng lớp. Một lần nữa tôi tin rằng đến hết Học kì I và sang Học kì II tôi vẫn áp dụng các biện pháp trên. Thì tôi tin rằng đến cuối năm học, học sinh lớp tôi sẽ đọc tốt và Hoàn thành chương trình lớp 1 đạt 100%.
C. KẾT LUẬN:
1. Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài của mình về cải tiến về nội d

File đính kèm:

  • docren_ky_nang_doc_dung_cho_hoc_sinh_lop_1.doc
Giáo án liên quan