Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thông qua hoạt động kể chuyện
* Trẻ xếp loại tốt là trẻ đã biết :
- Nghe hiểu
+ Trả lời câu hỏi : Ai đây? Cái gì đây ? Làm gì ? Làm thế nào?
Ví dụ: Con gà gáy thế nào?
+ Hiểu nội dung truyện ngắn đơn giản: trả lời các câu hỏi về tên truyện, tên và hành động của các nhân vật trong truyện.
- Nghe nhắc lại các âm và các tiếng, các câu.
+ Phát âm rõ tiếng.
- Sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp.
+ Trẻ phát âm rõ ràng: Trẻ nói được câu đơn , câu có 5-7 tiếng, có các từ thông dụng chỉ hoạt đông đặc điểm quen thuộc. Sử dụng lời nói và các mục đích khác nhau.
c và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời. - Dùa vµo ®Æc ®iÓm ph¸t triÓn t©m sinh lý cña trÎ. * Sinh lý: Trong sự phát triển về ngôn ngữ của trẻ thì đây là giai đoạn bắt đầu của ngôn ngữ chủ động. Do vậy, trong quá trình phát triển ngôn ngữ trẻ còn mắc một số hạn chế sau: + Phát âm chưa chính xác hay ngọng chữ n – l; x – s; dấu ngã - dấu sắc; dấu hỏi – dấu nặng. + Đồng thời do vài kinh nghiệm còn ít ỏi nên trẻ còn nhầm lẫn, khi tri giác chủ yếu dựa vào những đặc điểm bên ngoài để nói. + Một số đặc điểm nữa là giai đoạn này tư duy trực quan cụ thể là chủ yếu, nghĩa là lời nói luôn luôn gắn liền với mọi hành động đồ vật cụ thể thì trẻ mới hiểu được. * Tâm lý: + Trẻ thích giao tiếp với người xung quanh và có nhu cầu bằng trực quan, cần giải đáp thắc mắc mà trẻ gặp phải, trẻ thích được người lớn khen, động viên kịp thời, thích đồ chơi sặc sỡ về màu sắc và có âm thanh và một đặc điểm nữa là trẻ rất hay bắt chước người lớn. Trên đây là những cơ sở lý luận của đề tài và đã giúp tôi căn cứ vào đó để tìm ra những biện pháp dạy trẻ sao cho thật phù hợp đối với bộ môn này. 2. Cơ sở thực tiễn: 2.1. Đặc điểm nhà trường: Trường mầm non Cao Minh đã được công nhận trường chuẩn quốc gia. Trường có gồm 10 nhóm lớp với 28 cán bộ giáo viên, nhân viên, trường nhiều năm đạt tập thể lao động tiên tiến cấp Thị , chất lượng giảng dạy ngày một cao , được phụ huynh học sinh tin tưởng số lượng học sinh ra lớp ngày một đông. 2.2. Đặc điểm của lớp : Năm học 2012 -2013 tôi được phân công chủ nhiệm nhóm lớp nhà trẻ 24-36 tháng tuổi B. Là lớp nhà trẻ 24-36 tháng tuổi với số cháu 20, trong đó 8 cháu nữ, 12 cháu nam, với độ tuổi đồng đều , 100% trẻ ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, và tình cảm xã hội, cảm thụ cái hay cái đẹp trong cuộc sống xung quanh trẻ. Đó là một thuận lợi lớn để tôi rèn luyện phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ thông qua hoạt động kể chuyện. 2.3. Đối với giáo viên : Là một giáo viên có tinh thần trách nhiệm và đầy lòng nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ bản thân tôi xác định được mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ qua hoạt động kể chuyện về nghệ thuật sư phạm và tìm ra các giải pháp hữu ích nhất . 2.4. Đối phụ huynh: Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều, 100% phụ huynh là nông thôn . Kiến thức dạy trẻ phát triển ngôn ngữ trong độ tuổi nhà trẻ của các bậc phụ huynh còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy trong trường mầm non tôi muốn đề cập tới việc luyện cho trẻ ngôn ngữ thể hiện qua việc thực hiện hai nhiệm vụ dạy trẻ đối thoại giữa trò chơi, và độc thoại qua hoạt động kể chuyện. Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ được thể hiện ở mọi lúc mọi nơi trong sinh hoạt hằng ngày của bé. II. Nội dung vấn đề nghiên cứu 1. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển toàn diện của trẻ 1.1 Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển trí tuệ - Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc phát triển trí tuệ cho trẻ. - Ngôn ngữ là phương tiện nhận thức thế giới xung quanh, là cơ sở của mọi sự suy nghĩ, là công cụ của tư duy. + Trẻ có nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh. Thông qua ngôn ngữ, lời nói của người lớn, trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng và hiểu những đặc điểm, tính chất, cấu tạo, công dụng ... của chúng và trẻ học được từ tương ứng (từ và hình ảnh trực quan đi vào nhận thức của trẻ cùng một lúc). Ngôn ngữ giúp trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh, từ ngữ giúp cho việc củng cố những biểu tượng đã được hình thành. + Sự phát triển của ngôn ngữ giúp cho hoạt động trí tuệ, các thao tác tư duy ngày càng được hoàn thiện, kích thích trẻ tích cực, sáng tạo hoạt động trí tuệ. - Có nhiều phương tiện để nhận thức thế giới xung quanh nhưng ngôn ngữ là phương tiện nhận thức hữu hiệu. Thông qua ngôn ngữ trẻ nhận thức thế giới xung quanh chính xác, rõ ràng, sâu và rộng. Ngôn ngữ giúp trẻ tích cực, sáng tạo trong hoạt động trí tuệ do vậy việc phát triển trí tuệ không thể tách dời với việc phát triển ngôn ngữ. 1.2. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục đạo đức. - Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc hình thành và điều chỉnh những hành vi của trẻ. - Thông qua ngôn ngữ trẻ biết những gì nên, không nên, qua đó rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt ở trẻ, dần dần hình thành ở trẻ những khái niệm ban đầu về đạo đức ( ngoan - hư, tốt - xấu...). - Ngôn ngữ có tác dụng to lớn trong việc hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp ở trẻ. Ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào việc trang bị cho trẻ những hiểu biết về những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ những tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với xã hội mà trẻ đang sống. 1.3. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục thẩm mĩ - Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong quá trình tác động có mục đích, có hệ thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu đúng đắn cái đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật, giáo dục cho trẻ lòng yêu cái đẹp và năng lực tạo ra cái đẹp. - Thông qua ngôn ngữ, trẻ nhận thức được cái đẹp ở thế giới xung quanh, qua đó làm cho tâm hồn trẻ càng thêm bay bổng, trí tưởng tượng càng phong phú; đồng thời trẻ càng yêu quý cái đẹp, trân trọng cái đẹp và có ý thức sáng tạo ra cái đẹp. - Thông qua ngôn ngữ văn học, trẻ cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, cái đẹp trong hành vi, cái đẹp trong cuộc sống. Có thể khẳng định rằng ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào quá trình giáo dục cho trẻ những tình cảm thẩm mĩ cao đẹp. 1.4 .Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển thể lực Để phát triển thể lực cho trẻ cần kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, trong đó, ngôn ngữ đóng góp một vai trò quan trọng đáng kể. Trong các hoạt động góp phần phát triển thể lực như các trò chơi vận động, các giờ thể dục, trong chế độ ăn ... giáo viên đều cần dùng đến ngôn ngữ để hướng dẫn trẻ thực hiện tốt những yêu cầu cần đạt. Hoạt động nói năng liên quan đến các cơ quan hô hấp, thính giác, bộ máy phát âm ... Quá trình phát âm là quá trình rèn luyện bộ máy cấu âm, rèn luyện phổi, khí quản và các bộ phận khác của cơ thể. Để có thể lực tốt cần có một chế độ vệ sinh hợp lí, ngôn ngữ cũng tham gia vào quá trình chăm sóc vệ sinh để trẻ phát triển thể lực. 2. Thuận lợi và khó khăn. 2.1. Thuận lợi : Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu về chuyên môn, xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi những nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy học và đồ chơi của các cháu. 2.2. Khó khăn Do trình độ nhận thức không đồng đều, có một số cháu lúc đầu đến lớp vẫn chưa phát triển được nhiều ngôn ngữ cần thiết mà độ tuổi cần đạt được, một số cháu mới ê, a được 1 số từ ngữ đơn giản. Kinh nghiệm sống của trẻ chưa có nhiều, nhận thức hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ dùng từ không chính xác, câu lủng củng. Trẻ nói, phát âm do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh trẻ nói tiếng địa phương. Đa số phụ huynh làm nông nghiệp ít giao tiếp, ảnh hưởng của tiếng địa phương và ít trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói, thường chiều theo ý của trẻ đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc chậm phát triển ngôn ngữ. Với những khó khăn như thế tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất qua giao tiếp và tập cho trẻ làm quen văn học thể loại chuyện kể. 3. Thực trạng. Thời gian đầu năm học trẻ mới bắt đầu đến trường chưa quen với môi trường mới và phải xa bố mẹ, người thân trong gia đình nên trẻ đang còn hay khóc và chưa chịu học, chịu chơi. Vì thế, việc cho trẻ phát triển vốn từ đang còn hạn chế. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2012 - 2013 tại lớp nhà trẻ B trường mầm non Cao Minh như sau: Xếp loại Tổng số trẻ Tốt Khá Trung bình Yếu Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % 20 4 20 6 30 4 20 6 30 * Trẻ xếp loại tốt là trẻ đã biết : - Nghe hiểu + Trả lời câu hỏi : Ai đây? Cái gì đây ? Làm gì ? Làm thế nào? Ví dụ: Con gà gáy thế nào? + Hiểu nội dung truyện ngắn đơn giản: trả lời các câu hỏi về tên truyện, tên và hành động của các nhân vật trong truyện. - Nghe nhắc lại các âm và các tiếng, các câu. + Phát âm rõ tiếng. - Sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. + Trẻ phát âm rõ ràng: Trẻ nói được câu đơn , câu có 5-7 tiếng, có các từ thông dụng chỉ hoạt đông đặc điểm quen thuộc. Sử dụng lời nói và các mục đích khác nhau. Ví dụ: Con gì đây? Cái gì đây? + Trẻ nói to đủ nghe, lễ phép. + Kể lại đoạn truyện được nghe nhiều lần có gợi ý. + Thể hiện nhu cầu mong muốn và hiểu biết bằng 1, 2 câu đơn giản và câu dài. * Trẻ xếp loại khá là những trẻ biết: - Nghe hiểu + Trả lời câu hỏi : Ai đây? Cái gì đây? Làm gì? Làm thế nào? Ví dụ: Con gà gáy thế nào? + Hiểu nội dung truyện ngắn đơn giản: trả lời các câu hỏi về tên truyện, tên và hành động của các nhân vật trong truyện. - Nghe nhắc lại các âm và các tiếng, các câu. + Phát âm rõ tiếng. - Sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. + Trẻ phát âm rõ ràng: Trẻ nói được câu đơn , câu có 3 - 4 tiếng, có các từ thông dụng chỉ hoạt đông đặc điểm quen thuộc. Sử dụng lời nói và các mục đích khác nhau. Ví dụ: Con gì đây? Cái gì đây? + Trẻ nói to đủ nghe, lễ phép. + Kể lại đoạn truyện được nghe nhiều lần có gợi ý. * Trẻ xếp loại trung bình là những trẻ biết: - Ở những trẻ này trẻ chỉ biết trả lời câu hỏi : Ai đây? Cái gì đây? Thế nào? + Hiểu nội dung truyện ngắn đơn giản. + Biết sử dụng lời nói vào mục đích khác nhau. + Trả lời các câu hỏi về tên truyện,tên và hành động của các nhân vật trong truyện. + Trẻ phát âm còn chưa rõ + Trẻ chỉ nói được câu đơn, câu có 2-3 tiếng * Trẻ xếp loại yếu là những trẻ biết: - Ở trẻ này trẻ chỉ biết nghe hiểu. - Chưa biết nghe nhắc lại các âm các tiếng trong câu. - Trẻ phát âm chưa rõ tiếng. - Chưa biết kể lại câu chuyện cùng cô. Từ thực tế trên nên tôi mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi thông qua giờ kể chuyện”. * Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên. - Vì chưa hiểu hết được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ cho nên trong quá trình chăm sóc giáo dục hầu như giáo viên chưa chú ý đến việc thay đổi nội dung và cách thức trò chuyện, tạo các tình huống cho trẻ thể hiện những tình cảm và yêu cầu của mình bằng các âm các từ. Khi nói chuyện với trẻ cô hay nói nhanh và không chú ý tới việc sửa sai lỗi về từ, âm, câu cho trẻ. - Giáo viên chưa chú ý luyện câu, từ cho trẻ, nhiều trẻ nói thiếu, nói lặp cô không kịp thời điều chỉnh và sửa sai. - Quá trình tổ chức giờ học cô chưa chú ý đến hệ thống câu hỏi để giúp trẻ được tư duy và phát triển ngôn ngữ. - Đối với trẻ thì hệ thống ngôn ngữ không được mở rộng do cô đưa hệ thống câu hỏi đóng, trẻ hay nói câu thiếu các thành phần. - Khả năng lĩnh hội thông tin của trẻ rất hạn chế nếu cô truyền đạt một câu dài hoặc một sự việc có nội dung truyền tải nhiều. Qua kết quả đó tôi miệt mài nghiên cứu tài liệu, các phương tiện thông tin đại chúng đồng nghiệp và đưa một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi thông qua giờ kể chuyện. Với trẻ 24 đến 36 tháng tuổi rất thích nghe kể chuyện và rất hứng thú với hoạt động này. Chính vì vậy mà tôi muốn thông qua giờ kể chuyện để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Cụ thể các biện pháp thực hiện như sau: 3.1. Sưu tầm, làm thêm một số đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho giờ kể chuyện. - Mục đích: Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi thì việc sưu tầm, làm thêm một số đồ dùng đồ chơi phục vụ cho giờ kể chuyện là không thể thiếu. Chính vì vậy, tôi đã không ngừng sưu tầm, sáng tạo làm một số đồ dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động kể chuyện. - Nội dung và cách thức thực hiện: + Tôi tận dụng các nguyên liệu vật liệu có sẵn ở địa phương như: sách báo, lịch cũ, ống lon, chai nhựa, xốp, vải vụn, cành cây khô, quần áo cũ nhằm phát triẻn ngôn ngữ cho trẻ. + Dựa vào từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một cách cụ thể mỗi chủ đề có một bộ đồ chơi phục vụ cho quá trình giảng dạy và vui chơi tôi cho các cháu vào hoạt đông chơi góc để trẻ tạo ra những đồ chơi làm bằng lá cây, giấy vụn, hột hạt vẽ và tô màu những bức tranh, những hình ảnh trẻ sưu tầm gợi mở cho trẻ tưởng tượng kể chuyện. + Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy, tôi hướng dẫn trẻ làm ra những con rối thật xinh xắn từ câu truyện cổ tích trẻ học được, sáng tạo ra những nhân vật trẻ thích. Ví dụ: Tôi đã làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo từ những quả bóng và những mảnh vải vụn để thành những con rối rất đẹp phục vụ cho các câu chuyện mà tôi kể cho trẻ như: Truyện “ Đôi bạn nhỏ” dùng (Rối gà, rối vịt); Truyện “ Thỏ con không vâng lời” dùng ( Rối gấu, rối thỏ mẹ, thỏ con); Truyện “ Cá và chim” dùng ( Rối cá, rối chim).... + Khi kể chuyện tôi dùng những tranh ảnh sáng tác màu sắc đẹp để gây hứng thu cho trẻ nghe, xem để trẻ biết cách sử dụng và giữ gìn đồ chơi . + Tôi sử dụng các nguyên liệu mở như: thanh tre, bìa cứng, gỗ, hộp xốp, đất ... để làm thành những con vật xinh xắn, trẻ cũng có thể sử dụng được để kể chuyện theo ý thích. Ví dụ: Từ bìa cứng, xốp làm những con vật ngộ nghĩnh, đa dạng màu sắc để thu hút trẻ. Như khi kể truyện “Gà và vịt” để gây hứng thú cho trẻ tôi chuẩn bị một sân khấu rối, các con rối được làm bằng vải vụn được cải biên màu sắc rực rỡ. 3.2. Sắp xếp môi trường. - Mục đích: Việc sắp xếp môi trường lớp học hợp lý sẽ làm tăng thêm hiệu quả của hoạt động kể chuyện. Nhờ việc sắp xếp đồ dùng, đồ chơi hợp lý tạo cho trẻ không gian hoạt động tích cực vì vậy sẽ giúp trẻ khắc sâu hơn về tác phẩm mà trẻ sẽ được học. - Nội dung và cách thức thực hiện. + Tôi luôn chú ý bố trí sắp xếp đồ dùng, đồ chơi hợp lý để tạo môi trường học tốt và thoải mái cho trẻ . + Khi thực hiện các hoạt động làm quen văn học thể loại truyện kể mà trọng tâm là dạy kể chuyện sáng tạo thì tôi luôn trưng bày các đồ dùng kể chuyện, như khung sân khấu, sắp đặt tranh và các con rối sao cho trẻ dễ sử dụng, kích thích trẻ hoạt động tích cực hơn. Ví dụ: Giờ kể truyện “Đôi bạn nhỏ” tôi sắp xếp các đồ dùng trong lớp như: ● Treo tranh gà, vịt ở các góc. ● Sắp xếp mô hình gà, vịt sao cho trẻ dễ nhìn, dễ thấy. ● Tôi dã sử dụng môi trường hoạt đông một cách linh hoạt và khoa học. ● Trước giờ hoạt đông kể chuyện: Tôi cho trẻ xem đồ vật thật. Ví dụ: Trước khi tôi kể câu chuyện “Cây táo” tôi cho trẻ quan sát quả táo thật và giới thiệu với trẻ về quả táo nhờ vậy trẻ sẽ khắc sâu hơn, lâu hơn hình ảnh quả táo. ● Trong giờ hoạt động kể chuyện: Tôi cho trẻ quan sát mô hình câu chuyện tôi đang kể. Ví dụ: Tôi cho trẻ quan sát mô hình câu chuyện “Cháu chào ông ạ” Từ mô hình này sẽ giúp trẻ nhận ra các nhân vật trong truyện các tình tiết diễn ra trong câu chuyện. Trẻ sẽ nhớ tên truyện, tên các nhân vật trong truyện. Cũng từ mô hình này sẽ gúp trẻ nhớ lâu hơn nội dung câu chuyện. Do vậy, trẻ biết tập kể lại câu chuyện cùng cô một cách rõ ràng lưu loát. ● Sau hoạt đông kể chuyện: Tôi treo tranh, hình ảnh các nhân vật có trong câu chuyện trẻ vừa học ở xung quanh lớp. Ví dụ: Trẻ vừa được nghe và tập kể lại câu truyện “ Con cáo” cùng cô. Khi treo tranh, ảnh các con vật cáo gà, cún con, mèo con . Trẻ dễ dàng nhận ra tên các các con vật mà trẻ vừa học. Trẻ biết gọi tên các con con vật có trong câu chuyện đó nhờ vậy mà trẻ sẽ nhớ lâu hơn khắc sâu hơn câu chuyện trẻ vừa học. 3.3. Thay đổi hình thức giới thiệu bài gây hứng thú cho trẻ. - Mục đích: Để tránh sự nhàm chán cho trẻ, tôi luôn thay đổi hình thức giới thiệu bài để gây được hứng thú nhiều hơn cho trẻ. - Nội dung và cách thức thực hiện: + Tùy thuộc và nội dung bài dạy mà tôi lựa chọn các cách gây hứng thú cho trẻ một cách linh hoạt nhẹ nhàng. Tôi có thể dùng rối, tranh, ảnh, bài hát, câu đố, mô hình.... ● Sử dụng mô hình: Ví dụ: Trong chủ đề “Cây và những bông hoa đẹp” tên bài dạy là kể chuyện “ Cây táo” Tôi sẽ sử dụng mô hình vườn cây ăn quả để gây hứng thú và dẫn dắt trẻ vào bài . Hình ảnh minh họa: ● Sử dụng bài hát: Còn khi ở chủ đề “Các con vật đáng yêu”, tên bài dạy kể chuyện “ Cá và chim” Tôi sẽ cho trẻ hát bài “ Cá vàng bơi” để gây hứng thú cho trẻ. ● Sử dụng câu đố : Sử dụng câu đố để gây hứng thú cho trẻ dẫn dắt trẻ vào câu truyện cũng là cách tôi thường làm, để kích thích sự tò mò, suy nghĩ của trẻ. Ví dụ: Ở chủ đề “ Các con vật đáng yêu”, tên bài dạy là “Vịt con lông vàng” tôi đọc câu đố để cho trẻ đoán tên con vật. (Con gì kêu vít, vít Theo mẹ ra bờ ao Chẳng khác mẹ tí nào Cũng lạch bà lạch bạch) Tổ chức hoạt động đa dạng dựa vào hoạt động trọng tâm . Ví dụ: Khi trọng tâm là kể chuyện sáng tạo, tôi cho trẻ lựa chọn cho trẻ trang phục, đồ dùng phù hợp với nội dung câu chuyện trẻ sẽ tập kể dựa theo hình thức khác nhau. ● Sử dụng búp bê, rối: Tôi đã sử dụng búp bê, rối để gây hứng thú cho trẻ và trẻ lớp tôi đã rất thích. Ví dụ: Ở chủ đề “ Bé và những người thân yêu của bé”, tên bài dạy kể truyện “ Cả nhà ăn dưa hấu” tôi đã sử dụng búp bê sách làn hoa quả đến thăm lớp. ● Sử dụng các hình ảnh động trên máy chiếu: Ví dụ: Trong chủ đề “ Những con vật đáng yêu”, tên bài dạy kể truyện “ Cá và chim” tôi gây hứng thú cho trẻ bằng cách cho trẻ đi thăm quan vườn bách thú với những hình ảnh động của các con vật trên máy chiếu. 3.4.Trò chuyện để có giờ kể chuyện hay. * Mục đích: Để có giờ kể chuyện hay tôi luôn giành thời gian tìm hiểu nghiên cứu kỹ nội dung câu chuyện để tìm ra giọng kể phù hợp và đặt ra được hệ thống câu hỏi kích thích sự hứng thú hoạt động của trẻ. * Nội dung và cách thức thực hiện: 3.4.1. Chuẩn bị. + Nghiên cứu kỹ nội dung , tính cách nhân vật. + Tìm ngữ diệu phù hợp để kể chuyện diễn cảm . + Tập luyện và kể thử. ● Nghiên cứu kỹ nội dung , tính cách nhân vật. - Trước khi kể cho trẻ nghe câu chuyện gì. Giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung câu chuyện và tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện mà cô sẽ kể cho trẻ nghe. Khi cô đã hiểu được tính cách của từng nhân vật trong từng câu chuyện thì khi cô kể chuyện sẽ làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn. Ví dụ: Trong câu chuyện “ Thỏ con không vâng lời”, tính cách của thỏ con: Ham chơi không vâng lời mẹ. *Tìm ngữ diệu phù hợp để kể chuyện diễn cảm . Khi đã tìm hiểu kỹ nội dung, tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện thì giáo viên cần phải tìm ngữ điệu cho từng nhân vật trong câu chuyện đó phù hợp để khi kể câu chuyện đó được diễn cảm hơn. Ví dụ: Trong câu chuyện “ Chú vịt xám” + Giọng người dẫn chuyện: Đầm ấm, nhẹ nhàng + Giọng của vịt mẹ: Nhẹ nhàng, dịu dàng + Giọng của vịt con: Sợ hãi + Giọng con cáo: Gian ác ● Tập luyện và kể thử. Khi đã tìm hiểu kỹ nội dung, tính cách, ngữ điệu của các nhân vật trong câu chuyện mà cô sẽ kể thì cô cần tập luyện và kể thử nhiều lần trước khi kể chuyện cho trẻ nghe. Thông qua việc kể thử, kể lại nhiều lần cô sẽ diễn đạt và thể hiện tính cách của các nhân vật một cách rõ nét hơn. 3.4.2. Khi kể. - Khi kể, kể lưu loát bằng giọng cao thấp quấn hút trẻ vào bài. Ví dụ: Khi kể câu chuyện “ Dê con thích húc” giọng người dẫn chuyện thấp hơn so với giọng các nhân vật trong truyện. + Giọng của dê con : Thách thức + Giọng của bác gà trống tây: Nghiêm túc, trịnh trọng + Giọng của lợn con: Khó chịu + Giọng của bác cừu: Mệt mỏi + Giọng của chó con: Tinh nghịch, lém lỉnh - Cô kể kết hợp giảng giải nội dung câu chuyện: Khi cô kể xong câu chuyện lần 1 để trẻ khắc sâu nội dung câu chuyện cô đặt câu hỏi đàm thoại kết hợp giảng giải nội dung câu chuyện. Ví dụ: Trong câu chuyện “Em bé dũng cảm” cô cần có hệ thống câu hỏi như sau: + Ai đến trường tiêm phòng dịch cho các bé? + Bạn Huy đã nấp vào đâu? + Các bạn nhỏ hỏi cô giáo như thế nào? + Cô giáo nói gì với các bạn? + Ai là người xung phong vào tiêm đầu tiên? + Bạn Minh đã nói gì? + Bạn nào vào tiêm thứ hai? + Bạn An thấy thế nào? + Bạn Lan Chi tiêm có thấy sợ không? + Lúc này bạn Huy đã làm gi? - Động viên trẻ làm động tác theo cô, tập kể lại câu chuyện cùng cô. Khi trẻ đã hiểu được nội dung câu chuyện. Cô khuyến khích
File đính kèm:
- skkn_phat_trien_ngon_ngu.doc