Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả giúp học sinh lớp 1 “ Giải toán có lời văn” đạt hiệu quả cao

Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như " thêm, và , tất cả, . " hoặc "bớt, bay đi, ăn mất, còn lại , ." (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Một số giáo viên còn gạch chân quá nhiều các từ ngữ, hoặc gạch chân các từ chưa sát với nội dung cần tóm tắt. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn.

doc10 trang | Chia sẻ: dungnc89 | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả giúp học sinh lớp 1 “ Giải toán có lời văn” đạt hiệu quả cao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tác giả Nguyễn Thị Nhàn GV trường TH Sơn Mai
I.ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận.
Trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước giáo dục luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu” đây là động lực thúc đẩy góp phần làm cho nền kinh tế đất nước phát triển không ngừng về mọi mặt. Chính vì lẽ đó, ngành giáo dục luôn được đổi mới môn Toán ở tiểu học nói chung và môn Toán lớp 1 nói riêng để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Vì học sinh lớp Một ở lứa tuổi còn non nớt, khả năng chú ý có chủ định còn yếu, khả năng kiểm soát điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này tính chú ý không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định, sự tập trung chú ý của trẻ còn non và thiếu bền vững, dễ bị phân tán bởi những âm thanh, sự kiện khác ngoài nội dung học tập. Một mặt tri giác của trẻ còn mang tính đại thể, không ổn định ít đi vào chi tiết, tri giác thường gắn với hình ảnh trực quan nhưng trí tưởng tượng của các em vẫn còn đơn giản, dễ thay đổi. Đặc biệt ở lứa tuổi này tư duy của trẻ phát triển từ trực quan cụ thể đến tư duy trừu tượng hoá nên các em thường quan tâm chú ý đến các môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, nhiều tranh ảnh với nhiều màu sắc hấp dẫn. Các em rất ham chơi, thích làm việc theo ý mình, nhưng thích bắt chước người khác đặc biệt là giáo viên, trẻ coi thầy giáo cô giáo là thần tượng thích làm theo thầy cô giáo. Như vậy trong quá trình giảng dạy chúng ta cần giúp học sinh phát triển tư duy và trí tưởng tượng bằng cách biến các kiến thức khô khan thành những hình ảnh có cảm xúc, bằng những câu hỏi mang tính gợi mở gần gũi với các em, thu hút các em tích cực hoạt động trong giờ học tiếp thu bài tốt giúp các em phát triển toàn diện. Đây cũng là điều tôi luôn băn khoăn suy nghĩ, tìm tòi, trau dồi học hỏi và sàng lọc lựa chọn những phương pháp, những hình thức dạy học phù hợp, nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy.
2.Cơ sở thực tiễn:
Ở bậc Tiểu học lớp Một là lớp hết sức quan trọng. Nó là nền tảng vững chắc trang bị cho các em những kiến thức, kỹ năng cần thiết giúp các em tiếp tục học các lớp kế tiếp và là cầu nối tiếp tục học bậc trung học cơ sở. Bước đầu hình thành cho các em kĩ năng tự phục vụ mọi họat động trong cuộc sống hàng ngày.
Trong các môn học ở tiểu học, môn Toán đóng vai trò quan trọng nó cung cấp 
những kiến thức cơ bản về số, những phép tính đại lượng và khái niệm cơ bản về 
hình học, bên cạnh đó môn Toán còn góp phần vào phát triển tư duy, khả năng suy luận, phát triển ngôn ngữ, trau dồi trí nhớ, kích thích cho các em óc tò mò ham tìm hiểu khám phá và hình thành nhân cách cho các em giúp các em phát triển toàn diện.
Thực tế giảng dạy nhiều năm ở tiểu học tôi thấy kỹ năng tính nhẩm, làm các phép tính với số tự nhiên như làm tính cộng, trừ số có nhiều chữ số và phép chia đối với số có 2 hoăc 3 chữ số tốt... Nhưng dạng toán giải bài toán có lời văn các em ngại làm, làm rất chậm, làm đại cho xong, đặt lời giải sai, viết phép tính sáo trộn, viết đơn vị đi kèm sai, nhầm lẫn từ dạng này sang dạng kia. Trình bày bài làm chưa khoa học, lo gíc theo trình tự dẫn đến kết quả học tập chưa cao. 
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nói trên là do ngay từ lớp Một các em chưa hình thành được kĩ năng tìm hiểu đề toán và cách giải loại toán này. Vì ở lứa tuổi học sinh lớp Một các em rất hồn nhiên ngây thơ, ham chơi, chưa biết chữ, bởi vậy vốn kiến thức ngôn ngữ, nói, viết còn hạn chế. Chính vì thế nên đôi khi các em ghi được phép tính nhưng không nêu được câu lời giải. Một mặt các em chưa quen nề nếp học tập, chưa biết xác định đúng về nhiệm vụ và tầm quan trọng của việc học tập, chưa có hứng thú học tập cao dẫn đến chưa xác định được các dạng toán giải có liên quan đến lời văn. 	
Như vậy làm thế nào để giúp các em tiếp thu bài tại lớp, nắm kiến thức môn Toán một cách vững chắc, có hệ thống, có kỹ năng tính toán và giải toán có lời văn nhanh và chính xác đạt hiệu quả cao, để áp dụng vào thực tiễn trong cuộc sống hằng ngày. Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục phù hợp với thời kì phát triển của đất nước. Chính vì những lí do trên tôi chọn sáng kiến này để góp một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 giải toán ngày càng tốt hơn.
3. Mục đích nghiên cứu của SKKN:
Đề ra một số biện pháp áp dụng vào giảng dạy giải bài toán có lời văn lớp Một, tạo hứng thú trong giờ học toán, nâng cao chất lượng giảng dạy.
4. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu các phương pháp trong giảng dạy giúp học sinh lớp Một giải tốt bài toán có lời văn.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn giảng dạy môn toán lớp Một thông qua việc học sinh giải bài toán có lời văn trong năm học 2014 – 2015 tại đơn vị tôi công tác.
6. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp trắc nghiệm.
- Phương pháp trực quan.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp luyện tập.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Thực trạng 
Trong năm học 2014 – 2015 tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 1A, gồm 17 em (1em khuyết tật). Trong có 10 em nam và 7 em nữ. Bản thân tôi rất lo lắng vì một số em nhút nhát, đọc bài ngọng, tiếp thu bài chậm mau quên do đó chưa nhận biết được các chữ cái nên sợ đi học mấy tuần đầu đến trường còn khóc. Đa số các em rất hồn nhiên, ham chơi chưa có nề nếp và tinh thần trách nhiệm trong học tập, hay nói chuyện, thích làm việc riêng trong giờ học, thường xuyên xin ra ngoài, hay quên sách, vở, đồ dùng học tập và rất lười học bài ở nhà. 
Phần nhiều cha mẹ các em làm nông, làm vườn, làm trang trại, kinh tế gia đình còn gặp nhiều khó khăn. Nên phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của các em. Ngoài ra khi giải toán HS rÊt lóng tóng khi nªu c©u lêi gi¶i, thËm chÝ nªu sai c©u lêi gi¶i, viÕt sai phÐp tÝnh, viÕt sai ®¸p sè. Nh÷ng tiÕt ®Çu tiªn cña gi¶i to¸n cã lêi v¨n trong líp chØ cã kho¶ng 15% sè HS biÕt nªu lêi gi¶i, viÕt ®óng phép tÝnh vµ ®¸p sè. Sè cßn l¹i lµ rÊt m¬ hå, c¸c em chØ nªu theo qu¸n tÝnh hoÆc nªu miÖng th× ®­îc nh­ng khi viÕt c¸c em l¹i lµm sai, mét sè em lµm ®óng nh­ng khi c« hái kh«ng biÕt ®Ó tr¶ lêi. Do đó khi truyền thụ kiến thức cho các em giáo viên gặp rất nhiều khó khăn. Tôi đã tiến hành khảo sát để đề ra một số biện pháp rèn kĩ năng 
giải toán cho các em.
 Học sinh giải bài toán sau:
Lúc đầu tổ em có 5 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa.Hỏi tổ em có tất cả mấy bạn?
Sau khi tiến hành kiểm tra trước thực nghiệm, tôi thu được kết quả sau:
TS
Lớp
 HỌC SINH
Viết đúng câu lời giải
Viết đúng phép tính
Viết đúng đáp số
Giải đúng cả 3 bước
17
1A
1= 5,88%
9 = 52,94%
4 = 23,52%
 3= 17,64%
2. Các biện pháp rèn kĩ năng “Giải toán có lời văn”
a) Biện pháp thứ nhất: Đọc và tìm hiểu đề toán
Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như " thêm, và , tất cả, ... " hoặc "bớt, bay đi, ăn mất, còn lại , ..." (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Một số giáo viên còn gạch chân quá nhiều các từ ngữ, hoặc gạch chân các từ chưa sát với nội dung cần tóm tắt. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn.
Trong giai đoạn đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đàm thoại " Bài toán cho gì? Hỏi gì?" và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách tốt nhất để giúp học sinh ngầm phân tích đề toán.
Nếu học sinh gặp khó khăn trong khi đọc đề toán thì giáo viên nên cho các em nhìn tranh và trả lời câu hỏi. 
Ví dụ : Bài 3 trang 118, giáo viên có thể hỏi:
- Em thấy dưới ao có mấy con vịt? (Dưới ao có 5 con vịt)
- Trên bờ có mấy con vịt? ( Trên bờ có 4 con vịt)
- Đàn vịt có tất cả mấy con? (Có tất cả 9 con)
Trong trường hợp không có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể
 gắn mẫu vật (gà, vịt, ...) lên bảng từ để thay cho tranh; hoặc dùng tóm tắt bằng lời hoặc sơ đồ đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọc đề toán. 
 Cần lưu ý dạy giải toán là một quá trình không nên vội vàng yêu cầu các em phải đọc thông thạo đề toán, viết được các câu lời giải, phép tính và đáp số để có một bài chuẩn mực ngay từ tuần 23, 24. Chúng ta cần bình tĩnh rèn cho học sinh từng bước, miễn sao đến cuối năm (tuần 33, 34, 35) trẻ đọc và giải được bài toán là đạt yêu cầu. 
 	 b) Biện pháp thứ 2: Tìm đường lối giải bài toán.
Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái phải tìm.
Chẳng hạn:Nhà An có 5 con gà,mẹ mua thêm 4 con gà.Hỏi nhà An có 
tất cả mấy con gà?
- Bài toán cho gì? (Nhà An có 5 con gà)
- Còn cho gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà)
- Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?)
Giáo viên nêu tiếp: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em làm tính
gì? (tính cộng) Mấy cộng mấy? (5 + 4) ; 5 + 4 bằng mấy? (5 + 4 = 9); hoặc: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em tính thế nào? (5 + 4 = 9); hoặc: "Nhà An có tất cả mấy con gà ?" (9) Em tính thế nào để được 9 ? (5 + 4 = 9).
Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên ta viết "con gà" vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).
Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều khi việc hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn việc chọn phép tính và tính ra đáp số. Với học sinh lớp 1, lần đầu tiên được làm quen với cách giải loại toán này nên các em rất lúng túng.Có thể dùng một trong các cách sau:
 	Cách 1:Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi) và cuối (mấy con gà ?)để có câu lời giải:"Nhà An có tất cả:" hoặc thêm từ "là" để có câu lời giải:Nhà An có tất cả là: 
Cách 2: Đưa từ "con gà" ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ "Hỏi" và
 thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số con gà nhà An có tất cả là:"
 	Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của câu lời giải rồi thêm thắt chút ít. 
 	Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Có tất cả: ... con gà ?". Học sinh viết câu lời giải: "Nhà An có tất cả:"
Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: "Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?" để học sinh trả lời miệng: "Nhà An có tất cả 9 con gà" rồi chèn phép tính 
vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính):
Nhà An có tất cả:
5 + 4 = 9 (con gà)
 	Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà), giáo viên chỉ vào 9 và hỏi: "9 con gà ở đây là số gà của nhà ai?" (là số gà nhà An có tất cả). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: "Số gà nhà An có tất cả là" v.v...
Ở đây giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải khác nhau, sau đó bàn bạc để chọn câu thích hợp nhất. Không nên bắt buộc học sinh nhất nhất phải viết theo một kiểu.
c)Biện pháp thứ 3: Trình bày bài giải
Có thể coi việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư duy. Thực tế hiện nay các em học sinh lớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn chế, kể cả học sinh khá giỏi. Cần rèn cho học sinh nề nếp và thói quen trình bày bài giải một cách chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy nháp, bảng lớp, bảng con hay vở, giấy kiểm tra.Trước khi trình bày bài giải giáo viên cho học sinh nhắc lại bằng câu hỏi:
Muốn trình bày bài giải qua mấy bước?( Qua 3 bước) 
Đó là những bước nào?
+ Bước 1: Viết lời giải.
+ Bước 2: Viết phép tính.
+ Bước 3: Viết đáp số.
Từ đó học sinh trình bày bài giải một bài toán có lời văn như sau:
Bài giải
Nhà An có tất cả là:
 5 + 4 = 9 ( con gà )
 Đáp số : 9 con gà
 	Nếu lời giải ghi: "Số gà nhà An là:" thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 = 9 (con)”. (Lời giải đã có sẵn danh từ "gà").
Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao từ "con gà" lại được đặt trong dấu ngoặc đơn?Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 không thể bằng 9 con gà được. Do đó, nếu viết:"5 + 4 = 9 con gà"là sai. Nói cách khác, nếu vẫn muốn được kết quả là 9 con gà thì ta phải viết như sau mới đúng: 
"5 con gà + 4 con gà = 9 con gà". Song cách viết phép tính với các đơn vị đầy 
đủ như vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó khăn và tốn nhiều thời gian
 đối với học sinh lớp 1.Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu và sai như sau: 
	5 con gà + 4 = 9 con gà 
	5 + 4 con gà = 9 con gà 
	5 con gà + 4 con gà = 9 con gà
Về mặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ được viết 5 + 4 = 9 thôi.Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan trọng trong các phép tính giải nên vẫn phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới ghi thêm đơn vị "con gà" ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 9 đó. Có thể hiểu rằng chữ "con gà” viết trong dấu ngoặc đơn ở đây chỉ có một sự ràng buộc về mặt ngữ nghĩa với số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ về toán học với số 9. Như vậy cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một cách viết phù hợp. 
d) Biện pháp thứ 4: Kiểm tra lại bài giải
Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một thường có thói quen khi làm bài xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần giúp học sinh xây dựng thói quen học tập này.Cần kiểm tra về lời giải, về phép tính, về đáp số hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác. 
đ.Biện pháp thứ 5: Khắc sâu loại “Bài toán có lời văn"
Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu và giải tốt "Bài toán có lời văn" giáo viên cần giúp các em hiểu chắc, hiểu sâu loại toán này. Ở mỗi bài, mỗi tiết về "Giải toán có lời văn" giáo viên cần phát huy tư duy, trí tuệ, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh bằng việc hướng cho học sinh tự tóm tắt đề toán, tự đặt đề toán theo dữ kiện đã cho, tự đặt đề toán theo tóm tắt cho trước, giải toán từ tóm tắt, nhìn tranh vẽ, sơ đồ viết tiếp nội dung đề toán vào chỗ chấm (...), đặt câu hỏi cho bài toán. 
Ví dụ 1: Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán, rồi giải bài toán đó: 
 Bài toán: Dưới ao có ... con vịt, có thêm ... con vịt nữa chạy xuống. Hỏi ..........................................................................?
Ví dụ 2: Giải bài toán theo tóm tắt sau:
 	Có : 7 hình tròn
 	 Tô màu : 3 hình tròn
 	 Không tô màu : .......... hình tròn?
Qua cách gợi ý các em biết đặt lời giải và giải bài toán như trên là giáo viên đã thành công vì đây là học sinh lớp Một nên GV không nên yêu cầu các em đặt lời giải một cách máy móc rập khuôn và đầy đủ như các lớp trên. Vì đây là bước đầu giúp các em hình thành kỹ năng giải toán có lời văn, các em đã hiểu được lời giải của bài toán phải phụ thuộc vào cái cần tìm. Mỗi bài toán có nhiều cách đặt lời giải khác nhau.
 Tóm lại: Tuỳ từng dạng bài mà giáo viên nghiên cứu để lựa chọn cách thiết kế bài giảng sao cho phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình để giúp các em hiểu được đề bài toán và biết cách giải bài toán dẫn đến kết quả chính xác. Tùy theo từng loại bài mà giáo viên sẽ củng cố cho các em những kiến thức đã học một cách có hệ thống khoa học và lo gic. Từ đó các em sẽ nắm vững các kiến thức hơn và biết áp dụng làm các bài tập thực hành một cách thành thạo kết quả chính xác 
góp phần nâng cao hiệu quả tiết dạy. 
 Trªn ®©y lµ một số biện pháp rèn kĩ năng gi¶i to¸n cã lêi v¨n ë líp 1.T«i ®· ®­a ra ph­¬ng ph¸p d¹y tõ dÔ ®Õn khã ®Ó HS cã thÓ gi¶i to¸n mµ kh«ng gÆp khã kh¨n ë b­íc viÕt c©u lêi gi¶i và trình bày bài giải dễ dàng. Tôi đã tiến hành khảo sát kết quả thu được hết sức khả quan:
TS
Lớp
 HỌC SINH
Viết đúng câu lời giải
Viết đúng phép tính
Viết đúng đáp số
Giải đúng cả 3 bước
17
1A
16 = 94,11%
17 = 100 %
17 = 100 %
 16= 94,11%
III. KẾT LUẬN
Trong thực tế quá trình giảng dạy môn Toán 1 nhiều năm qua bản thân tôi đã tích lũy được một vài kinh nghiệm sau:
- Giáo viên phải gương mẫu, nhiệt tình công bằng trong giảng dạy, có tâm huyết với nghề thương yêu học sinh phải thể hiện được 3 vai trò thân thiện đối với các em “ Vừa là cô giáo, vừa là người mẹ hiền, vừa là người bạn thân của các em, luôn gần gũi trò chuyện tâm sự với các em, thường xuyên liên hệ với phụ huynh để tìm hiểu nguyên nhân hoàn cảnh của từng em để có biện pháp giúp đỡ từng em kịp thời trong học tập.
- Phải nghiên cứu SGK nắm vững chương trình Toán 1; sách hướng dẫn và các loại tài liệu tham khảo có liên quan đến giảng dạy.
- Khi thiết kế bài giảng nắm chắc các yêu cầu trọng tâm của từng tiết dạy để lựa chọn các phương pháp, các hình thức tổ chức dạy học đa dạng phong phú phù hợp kết hợp được 3 loại đối tượng học sinh. Tạo không khí lớp học sôi nổi gây hứng thú học tập cho các em giúp các em tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng không nhàm chán để tiết dạy đạt hiệu quả cao.
- Chuẩn bị các đồ dùng dạy học trong tiết phải mang tính khoa học, phong phú, đa dạng phù hợp với mục đích yêu cầu của bài, kích thích tư duy, óc sáng tạo giúp các em học tập các em đạt hiệu quả cao.
- Khi sử dụng tranh, ảnh và các đồ dùng dạy học cần nghiên cứu hiểu ý
đồ của tranh ảnh vả đồ dùng khai mà thác triệt để tác dụng của đồ dùng, giúp tiết 
dạy sinh động mang lại hiệu quả cao.
- Phải tự rèn luyện kỹ năng, nghệ thuật sư phạm khéo léo, tác phong lên lớp chững chạc. Biết sử dụng kết hợp nhiều phương pháp dạy học, luôn coi trọng phương pháp tích cực, để phát huy trí thông minh, óc sáng tạo, tính linh hoạt, nhanh nhẹn trong quá trình tham gia các hoạt động học tập của các em.
- Luôn thao giảng dự giờ đồng nghiệp thường xuyên để trau dồi học hỏi kinh nghiệm của bạn bè đồng nghiệp góp phần nâng cao chuyên môn nghiệp vụ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
	- Thường xuyên kiểm tra bài cũ và sau tiết dạy để kiểm tra việc tiếp thu bài của các em đồng thời phát hiện kịp thời những em học yếu, tiếp thu bài chậm, lười học bài ở nhà, kết hợp động viên nhắc nhở kịp thời giúp các em có tiến bộ trong học tập.
IV. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT.
Trên đây là một vài kinh nghiệm thực tế mà bản thân tôi đã tích lũy được trong những năm giảng dạy môn Toán lớp 1. Rất mong hội đồng khoa học phòng GD ĐT Hương Sơn xem xét bổ sung cho sáng kiến kinh nghiệm của tôi ngày càng phong phú hơn nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy.
Xin trân trọng cảm ơn! 
Hương Sơn , ngày 9 tháng 3 năm 2015
Tác giả Nguyễn Thị Nhàn GV trường TH Sơn Mai

File đính kèm:

  • docSKKN_Nang_cao_hieu_qua_giup_hoc_sinh_lop_1_Giai_toan_co_loi_van_Hieu_qua.doc