Sáng kiến kinh nghiệm Một số kỹ năng để dạy tốt môn Địa lí lớp 4B Trường Tiểu học xã Vân An

 Trong những năm gần đây học sinh chưa thực sự cố gắng trong việc học phân môn Địa lí. Qua một thời gian giảng dạy, tôi nhận thấy rằng chất lượng học sinh không đồng đều. Một số học sinh ít được tiếp xúc về thế giới bên ngoài nên các em phân tích bảng số liệu, đọc và chỉ bản đồ, lược đồ còn lúng túng.

Qua khảo sát đầu năm tôi thấy hầu hết học sinh còn gặp khó khăn trong phân tích bảng số liệu, đọc và chỉ bản đồ, lược đồ và tranh ảnh sự tìm tòi tư liệu, cách trình bày kết quả bằng lời nói, cách diễn đạt còn hạn chế và sơ sài. Để môn Địa lí không xa lạ, chán nản với học sinh và làm cho các bậc phụ huynh học sinh đầu tư thời gian cho môn Địa lí nhiều hơn. Bản thân tôi muốn góp phần nhỏ bé xây dựng một nền móng vững chắc cho các em học sinh hoàn thiện về mặt tri thức và nhân cách và có thể hiểu biết thêm về phân môn địa lí, để các em thêm yêu mến quê hương đất nước, yêu những gì mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Từ đó các em sẽ tích cực tự nguyện tham gia góp phần bảo vệ môi trường và trân trọng giữ gìn những thành tựu kinh tế đất nước. Để tự hào rạng danh nước Việt, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Từ những lí do khách quan và chủ quan trên, thông qua việc học tập và giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu một số kĩ năng dạy tốt môn Địa lí lớp 4 nhằm tìm ra được phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp nhất, vận dụng tốt nhất cho quá trình giảng dạy.

 

doc22 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 613 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một số kỹ năng để dạy tốt môn Địa lí lớp 4B Trường Tiểu học xã Vân An, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược như vậy, các em sẽ càng có quyết tâm học tập, lao động, xây dựng đất nước, càng thêm cảnh giác để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ những thành quả lao động của mình. Như vậy, môn Địa lí không chỉ giáo dục cho học sinh long yêu nuớc, thái độ lao động nhiệt tình nói chung mà còn bồi dưỡng cho các em ý thức làm chủ, mong muốn góp phần làm cho đất nước, quê hương giàu đẹp.
	Vậy xuất phát từ thực tế và yêu cầu cần thiết của xã hội hiện nay, để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, sự yêu thích môn học, đáp ứng được mục của tiêu Giáo dục & Đào tạo, tạo ra con người mới, phục vụ cho bản thân, gia đình và xã hội. Với những lý do nêu trên, bản sáng kiến này chúng tôi xin nêu: “Một số kỹ năng để dạy tốt môn Địa lí lớp 4 B Trường Tiểu học xã Vân An”.
	2. Cơ sở thực tiễn
	Trong những năm gần đây học sinh chưa thực sự cố gắng trong việc học phân môn Địa lí. Qua một thời gian giảng dạy, tôi nhận thấy rằng chất lượng học sinh không đồng đều. Một số học sinh ít được tiếp xúc về thế giới bên ngoài nên các em phân tích bảng số liệu, đọc và chỉ bản đồ, lược đồ còn lúng túng.
Qua khảo sát đầu năm tôi thấy hầu hết học sinh còn gặp khó khăn trong phân tích bảng số liệu, đọc và chỉ bản đồ, lược đồ và tranh ảnh sự tìm tòi tư liệu, cách trình bày kết quả bằng lời nói, cách diễn đạt còn hạn chế và sơ sài. Để môn Địa lí không xa lạ, chán nản với học sinh và làm cho các bậc phụ huynh học sinh đầu tư thời gian cho môn Địa lí nhiều hơn. Bản thân tôi muốn góp phần nhỏ bé xây dựng một nền móng vững chắc cho các em học sinh hoàn thiện về mặt tri thức và nhân cách và có thể hiểu biết thêm về phân môn địa lí, để các em thêm yêu mến quê hương đất nước, yêu những gì mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Từ đó các em sẽ tích cực tự nguyện tham gia góp phần bảo vệ môi trường và trân trọng giữ gìn những thành tựu kinh tế đất nước. Để tự hào rạng danh nước Việt, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Từ những lí do khách quan và chủ quan trên, thông qua việc học tập và giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu một số kĩ năng dạy tốt môn Địa lí lớp 4 nhằm tìm ra được phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp nhất, vận dụng tốt nhất cho quá trình giảng dạy. 
III. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
	1. Nội dung và kết quả nghiên cứu
	Trường Tiểu học xã Vân An là trường đóng tại xã vùng III của huyện Chi Lăng số học sinh có hoàn cảnh khó khăn chiếm tỉ lệ khá cao. Trong số học sinh nghèo và cận nghèo chiếm khá đông trong số học sinh toàn trường. Vì điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên một số gia đình chỉ lo làm ăn chưa chăm lo đến học tập của con em, một số gia đình đã quan tâm chăm lo cho con em nhưng chỉ đầu tư cho môn Toán và môn Tiếng Việt, coi môn Địa lí là môn phụ.
	Học sinh lớp 4 lần đầu tiên được tiếp thu kiến thức mới đối với môn Địa lí, bước đầu được làm việc nhiều với bản đồ, lược đồ, tranh ảnh.
	Việc quan sát các sự vật, hiện tượng địa lí, tìm tòi tư liệu, cách trình bày kết quả bằng lời nói, cách diễn đạt còn hạn chế và sơ sài. Xuất phát từ thực trạng trên thì việc đầu tiên người giáo viên cũng phải nhận thức được tầm quan trọng của môn Địa lí, để giúp học sinh cũng như các bậc phụ huynh thật sự nhận thức được môn Địa lí nó không kém phần quan trọng so với môn Toán và môn Tiếng Việt. Cụ thể giáo viên cần:
	- Xác định môn Địa lí có những nội dung kế thừa của môn Tự nhiên và xã hội lớp 1, 2, 3.
	- Trước hết người giáo viên cần tìm hiểu nội dung chương trình Tự nhiên và xã hội lớp 1, 2, 3 thật kỹ sau đó xem nội dung nào các em đã học để giảng dạy không trùng lặp.
 Từ những nội dung đã học, giáo viên truyền thụ sâu hơn tránh làm nhàm chán cho học sinh.
	- Lựa chọn các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, tìm ra những điểm học sinh còn hạn chế để có thể giúp học sinh học tốt . 
 - Việc hướng dẫn học sinh quan sát, phân tích số liệu trên bản đồ, lược đồ, kỹ năng chỉ bản đồ cũng là phần vô cùng quan trọng dối với học sinh.Vì nếu quan sát, phân tích bản đồ, lược đồ, phân tích số liệu không chính xác thì dẫn đến không hiểu gì về các yếu tố địa lí. 
	Dựa vào những nội dung trên tôi đã tìm ra một số phương pháp sau đây để giúp học sinh học tốt môn Địa lí:
1.1. Phương pháp thứ nhất: Giáo viên chuẩn bị bài kỹ lưỡng và xác định đúng mục tiêu của bài.
Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học là khâu rất quan trọng. Bởi vì đồ dùng trực quan sẽ thu hút và gây hứng thú cho học sinh, như vậy tiết dạy mới có hiệu quả. Tiếp theo là xác định đúng mục tiêu của từng bài. Tuy trong sách giáo viên đã có những mục tiêu cụ thể nhưng giáo viên rất dễ dạy thiếu mục tiêu hoặc chưa biết phải dạy như thế nào. Khi nói tới Địa lí, chúng ta phải nghĩ đến điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội. Điều kiện tự nhiên chính là vị trí giới hạn, sông ngòi, khí hậu, địa hìnhĐiều kiện xã hội là nói tới con người. Hai điều kiện này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ngoài ra, ở điều kiện tự nhiên còn có mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên với nhau. Và mối quan hệ này được thể hiện rất nhiều trong chương trình Địa lí lớp 4.
Trong chương trình lớp 4 chỉ yêu cầu xác định mối quan hệ Địa lí đơn giản, không giải thích nhiều, do vậy học sinh chỉ cần hiểu, phân tích được vài yếu tố tự nhiên đơn giản ảnh hưởng lẫn nhau còn mức độ cao hơn các em sẽ được học ở chương trình Địa lí cấp Trung học cơ sở. 
Ví dụ: + Mối quan hệ giữa vị trí với khí hậu 
Vị trí địa lí sẽ ảnh hưởng tới khí hậu nước Việt Nam vì nước ta kéo dài từ Bắc xuống Nam, hơn nữa lại nằm trên vành đai nhiệt đới, phía Đông giáp biển Đông vì vậy sẽ có khí hậu nhiệt đới gió mùa.
+ Mối quan hệ giữa vị trí, khí hậu, thực vật, động vật
	Vị trí của thành phố Đà Lạt nằm trên cao nguyên nên có khí hậu lạnh, mát mẻ quanh năm. Ngoài ra ở Đà Lạt trồng được những loại cây phù hợp với khí hậu lạnh mà những vùng khác, thành phố khác không trồng được.
+ Mối quan hệ giữa sông ngòi với địa hình :
	Địa hình miền Trung nhỏ, hẹp nên đa số sông miền Trung đều ngắn, dốc.
+ Mối quan hệ giữa tự nhiên với kinh tế 
	 Nước ta có khí hậu nhiệt đới phù hợp	cho việc trồng cây lúa nước và các loại cây ăn quả...
	 Như vậy qua những ví dụ cụ thể trên giáo viên có thể hình dung được các mối quan hệ Địa lí đơn giản. Tùy theo mục tiêu từng bài, giáo viên sẽ chốt kĩ những mối quan hệ này. Nếu những bài dạy đầu tiên giáo viên giúp các em xác định những mối quan hệ Địa lí đơn giản thì những bài sau sẽ rất nhẹ nhàng vì học sinh đã quen đã hiểu và các em tự phân tích được ngay.
	1.2. Phương pháp thứ hai: Khắc sâu, mở rộng kiến thức sau mỗi họat động dạy học.
Nếu giáo viên chỉ dạy những gì trong sách giáo khoa và sách giáo viên thể hiện thì chưa đủ. Vì chỉ dạy những gì trong sách thì chưa thấy được vai trò của giáo viên. Trong sách có sẵn câu hỏi, phần trả lời, học sinh chỉ cần xem là làm được. Vậy để gây hứng thú cho học sinh, trước hết chúng ta cần xác định dạy môn Lịch sử và Địa lí nói chung và Địa lí nói riêng là cung cấp thêm cho các em một số vốn sống phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi của các em. Trẻ nhỏ thì mau quên nhưng cũng rất “tò mò”, thích khám phá. Vì vậy, trong qúa trình giảng dạy giáo viên chốt sâu kiến thức sẽ giúp các em hứng thú tìm tòi, yêu thích môn học hơn. Để làm được điều này, trước tiên giáo viên cần tham khảo sách, báo tư liệu, tranh ảnh liên quan đến nhiều môn chứ không riêng môn Địa lí. Cập nhật kiến thức thường xuyên như một thói quen thì lúc đó chúng ta sẽ nhớ lâu hơn. Tuy nhiên khi khắc sâu hay mở rộng kiến thức phải có sự lựa chọn, đảm bảo tính chính xác, bám sát vào nội dung bài đang dạy tránh sa đà đi qúa mục tiêu bài.
Ví dụ: Bài Hoạt động sản xuất của người dân ở Hoàng Liên Sơn (trang 76/ Sách Lịch sử và địa lí lớp 4). Trong bài cho biết người dân xẻ sườn núi san thành những bậc phẳng gọi là ruộng bậc thang, như vậy chỉ cho thấy người dân làm ruộng bậc thang. Giáo viên cần chốt kĩ sâu kiến thức vì sao phải làm ruộng bậc thang mà không làm như ruộng ở đồng bằng vì địa hình ở đây rất dốc nếu làm như ở đồng bằng khi tưới nước sẽ chảy xuống thấp hết, lúa sẽ chết, còn ruộng bậc thang, từng bậc phẳng sẽ giữ lại nước cho cây.
Bài thành phố Đà Nẵng (trang.147 /Sách giáo khoa lớp 4). Trong sách cho biết Đà Nẵng là trung tâm công nghiệp có một số hàng đưa đi nơi khác như vật liệu xây dựng, đá mĩ nghệ, vải may quần áo, hải sản (đông lạnh, khô). Nếu chỉ như thế thì học sinh rất khó hình dung trung tâm công nghiệp. Sau này khi học về một vùng một miền nào đó cũng có những sản phẩm như thế các em sẽ cho đó là trung tâm công nghiệp. Muốn vậy, giáo viên cần nêu thêm tại Đà Nẵng có rất nhiều nhà máy chế biến, đưa thêm số liệu cụ thể để tăng sức thuyết phục là trung tâm công nghiệp hơn. Khắc sâu bằng cách đưa ra câu hỏi, trò chơi.
	1.3. Phương pháp thứ ba: Nắm vững kĩ năng sử dụng bản đồ, lược đồ, bảng số liệu.
Đồ dùng dạy học không thể thiếu trong giảng dạy môn Địa lí là bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, bảng số liệu  Vì bản đồ địa lí là hình vẽ thu nhỏ bề mặt Trái Đất hoặc một bộ phận của bề mặt Trái Đất trên mặt phẳng dựa vào các phương pháp toán học, phương pháp biểu hiện bằng kí hiệu để thể hiện các thông tin về Địa lí. Do đó, giáo viên sử dụng bản đồ, lược đồ cần chính xác và hiệu qủa để khai thác kiến thức mới. Có lẽ, giáo viên cũng đã nắm được trình tự sử dụng bản đồ nhưng tôi cũng xin nhắc lại các bước: 
Bước 1 : Nắm được mục đích làm việc với bản đồ. 
 Việc đầu tiên là đọc tên bản đồ, để biết nội dung sử dụng cung cấp kiến thức gì cho bài học. Bước này không khó, giáo viên cần lưu ý khi tự vẽ thêm bản đồ thì phải có tên bản đồ (có thể viết trên hoặc viết ở dưới) 
	Bước 2 : Xem bảng chú giải để có biểu tượng địa lí cần tìm trên bản đồ.
Đọc bảng chú giải, kí hiệu nào cho biết thông tin gì. Ví dụ: đường đứt khúc chỉ ranh giới giữa các tỉnh, cây dù chỉ bãi biển, chấm tròn chỉ thành phố 
 Bước 3 : Tìm vị trí Địa lí của đối tượng trên bản đồ.
Đây chính là bước kĩ năng chỉ bản đồ. Ở bước này học sinh thường chỉ không chính xác do không thường xuyên chỉ bản đồ nên dễ lúng túng. Chỉ bản đồ có các cách chỉ sau : 
 + Chỉ điểm (thành phố , khoáng sản,) 
 	+ Chỉ đường (sông, dãy núi, )
 + Chỉ vùng (chỉ vị trí giới hạn của tỉnh, thành phố, )
 + Một số thao tác khi chỉ các biểu tượng địa lí. 
	- Chỉ về một địa danh, một thành phố, một tỉnh Nếu là bản đồ hành chính thì sẽ có ranh giới giữa các nước, các thành phố, tỉnh. Giáo viên chỉ theo đường ranh giới bắt đầu ở điểm nào thì kết thúc ở điểm đó của một châu lục, một nước, một thành phố, một tỉnh muốn chỉ. Nếu là bản đồ tự nhiên thì thường một thành phố được kí hiệu bằng dấu chấm tròn, GV chỉ ngay vào chấm tròn là thành phố, hoặc chỉ các phương tiện đi lại của các vùng miền (Xem chú giải trên bản dồ, lược đồ)
Chỉ về biển, sông ngòi, Đại dương khi chỉ kéo rộng trong giới hạn của nó không lấn vào đất liền. Biển, sông, dãy núi chỉ theo hướng từ thượng lưu đổ xuống hạ lưu, từ nơi cao (độ cao của địa hình) xuống nơi thấp. 
Bước 4 : Quan sát đối tượng trên bản đồ, nhận xét và nêu đặc điểm đơn giản của đối tượng (khai thác một phần kiến thức mới). 
Ví dụ : Khi chỉ vị trí của nước Việt Nam, nhận xét vị trí nước ta kéo dài từ Bắc xuống Nam.
Bài Đồng bằng Nam Bộ, quan sát và chỉ lược đồ xong, học sinh có thể nhận xét ngay là hệ thống sông ngòi nhiều, chằng chịt.
Bài địa hình nước ta, dựa vào màu sắc học sinh nhận xét được ngay đồi núi nhiều hơn đồng bằng.
Bài Người dân ở đồng bằng Nam Bộ, quan sát, nhận xét trang phục của người dân ở dồng bằng Nam Bộ
 Bước 5 : Xác lập mối quan hệ địa lí đơn giản giữa các yếu tố tự nhiên
	- Ví dụ: Khi học sinh chỉ được vị trí nước ta, phía Đông giáp biển Đông, đường bờ biển kéo dài như thế thì sẽ thuận lợi để phát triển ngành nào? (đánhbắt thủy hải sản). Đó chính là mối quan hệ giữa vị trí địa lí và hoạt động sản xuất.
1.4. Phương pháp thứ tư: Các thao tác hướng dẫn chỉ bản đồ.
 - Khi chỉ bản đồ sử dụng dụng cụ chỉ bản đồ, không dùng tay thao tác.
- Tư thế khi thao tác là mặt quay xuống phía học sinh, có thể đứng bên trái hay bên phải tùy thuộc Giáo viên thuận tay nào.
- Bản đồ, lược đồ khi treo lên bảng cần đủ lớn để tất cả học sinh có thể quan sát được.
- Giới thiệu biểu tượng muốn chỉ rồi thao tác, hoặc thao tác trước rồi giới thiệu biểu tượng, tránh vừa thao tác vừa giới thiệu rất dễ sai. 
- Giáo viên và học sinh nên thường xuyên thao tác trên bản đồ để giúp học sinh nhuần nhuyễn khi lên học lên lớp trên.
1.5. Phương pháp thứ năm: Các hình thức cách thức tổ chức dạy học.
Để thực hiện có hiệu quả kinh nghiệm trên tôi đã sử dụng các hình thức như:
 - Hình thức thảo luận nhóm.
 - Hình thức thảo luận cặp đôi.
 - Hình thức trò chơi tiếp sức.
 Cách chơi trò chơi tiếp sức như sau:
 + Chia lớp làm hai đội, phân nhóm trưởng.
 + Phát các tên địa danh cho hai nhóm và hướng dẫn cách chơi.
+ Giao thời gian trò chơi là 2 phút
+ Cho học sinh chơi thử.
+ Quản trò hô đội nào gắn đúng và nhanh là thắng cuộc.
 - Hình thức tô, vẽ lược đồ. 
 - Hình thức trò chơi phóng viên: ví dụ một học sinh làm phóng viên phỏng vấn về đất nước, con người Việt Nam.
2. Đánh giá kết quả thu được:
- Năm học 2019 – 2020
Bảng đánh giá chỉ bản đồ
 Nội dung
 Đầu năm
 Cuối học kỳ I
Dự kiến cuối năm
Hiểu mục tiêu bài
5/14
10/14
12/14
Nhớ và khắc sâu kiến thức
4/14
10/14
12/14
Đọc và chỉ bản đồ
6/14
11/14
13/14
Hứng thú học môn Địa lý
5/14
10/14
14/14
Bảng khảo sát điểm kiểm tra
Thời điểm
khảo sát
TS
HS
 Điểm dưới TB
 Điểm trên TB
 1 - 2
 3- 4
 5 - 6
 7 -8
9 - 10
 Đầu năm
14
0
2
6
3
3
 Cuối học kì I
14
0
0
3
6
5
Cuối năm
14
0
0
0
4
10
	3.Tính mới, tính sáng tạo của đề tài
	- Giáo viên chuẩn bị bài kỹ lưỡng và xác định đúng mục tiêu của bài.
	- Khắc sâu, mở rộng kiến thức sau mỗi hoạt động dạy học.
	- Học sinh nắm vững kỹ năng sử dụng bản đồ, lược đồ, bảng số liệu.
	- Hướng dẫn kỹ các thao tác chỉ bản đồ.
	- Thực hiện tốt các hình thức tổ chức dạy học.
	 Việc chỉ bản đồ, lược đồ, quan sát, phân tích các số liệu trên bản đồ, lược đồ cần thực hiện một cách khoa học, chính xác. Tạo cho học sinh những tiết học nhẹ nhàng, thoải mái, để dễ lôi cuốn học sinh vào những bài học.
	 Bản thân phải luôn tìm tòi chuẩn bị những đồ dùng, tranh ảnh để chuẩn bị cho từng tiết học.
	Để dạy tốt môn Địa lí cần thay đổi hình thức dạy học phù hợp nhằm gây hứng thú cho học sinh. Học về người dân vùng nào cần cho học sinh xem các video clip về nét sinh hoạt của người dân ở vùng đó sau đó mới cho học sinh thảo luận các câu hỏi liên quan.
	4. Khả năng áp dụng và mang lại lợi ích thiết thực của sáng kiến.
	4.1. Khả năng áp dụng hoặc áp dụng, nhân rộng.
Sáng kiến này tôi đã áp dụng tại lớp 4B và trong tổ khối 4 Trường Tiểu học xã Vân An. Qua thực tế tôi thấy học sinh học tập một cách sôi nổi, kết quả học tập môn Địa lí của học sinh được nâng lên rõ rệt. Qua đó đã nâng cao chất lượng về môn Địa lí của trường.
Đề tài này giúp học sinh linh hoạt hơn trong các tiết học. Học sinh hứng thú hơn trong học tâp. Các tiết học trở nên sôi nổi hơn, tạo tâm lý học tập tốt hơn. Mang lại hiệu quả cao hơn dẫn đến chất lượng ngày một nâng cao.
4.2. Khả năng mang lại lợi ích thiết thực
 - Lợi ích kinh tế: Học sinh tự tìm tòi, khám phá qua nhiều kênh thông tin khác nhau. Hiểu biết về cuộc sống sinh hoạt của các dân tộc trên khắp các vùng, miền, thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam. Các trò chơi, lược đồ giáo viên tự thiết kế nên giáo viên và học sinh không mất tiền mua đồ dùng.
- Lợi ích xã hội: Nâng cao tinh thần ham học hỏi, học sinh mạnh dạn, tự tin trong các tiết học và yêu thích môn Địa lí. Hiểu biết về con người Việt Nam ta. Từ đó các em thêm yêu cảnh vật thiên nhiên và con người Việt Nam. Học sinh luôn hào hứng trong học tập, tiếp thu bài khá nhanh. Việc thao tác chỉ bản đồ, lược đồ, phân tích bảng số liệu nhanh và chính xác hơn, học sinh nhanh nhẹn hoạt bát hơn trong học tập. Ngoài ra khi dạy phần Lịch sử các em cũng nhanh nhẹn áp dụng các biện pháp giáo viên hướng dẫn ở môn Địa lí vào môn Lịch sử thành thạo hơn. 
III. KẾT LUẬN
Trong học tập cũng như trong cuộc sống hằng ngày, con người luôn phải học hỏi, tiếp thu cái mới của xã hội. Để tìm hiểu về những thành tựu kinh tế, xã hội của đất nước, những tinh hoa văn hóa của các dân tộc. Môn Lịch sử và Địa lí giúp học sinh khám phá thế giới tự nhiên, xã hội xung quanh để bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc. Hình thành cho học sinh nhân cách con người mới trong xã hội.
	Trên đây là một số kinh nghiệm nhằm giúp cho chúng tôi dạy tốt môn Địa lí ở lớp 4B ở Trường Tiểu học xã Vân An. Để dạy môn Địa lí đạt hiệu quả cao hơn là một yêu cầu quan trọng, cần thiết và đầy khó khăn, đòi hỏi mỗi người giáo viên giảng dạy phải thực sự chuyên tâm, không ngừng học hỏi và rèn luyện, chuyên môn. Ngoài ra chúng ta cũng cần vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo phương pháp dạy học phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh thì mới đạt kết quả tốt. Chất lượng dạy và học chính là thước đo giá trị của một nhà trường nói chung và trường tiểu học và mỗi giáo viên giảng dạy nói riêng. Tuy nhiên những giải pháp nêu ra không tránh khỏi sai sót. Kính mong Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm, quý thầy cô và đồng nghiệp đóng góp thêm để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!	
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
.................................................................................
................................................................................. 
................................................................................
................................................................................
...............................................................................
...............................................................................
TÁC GIẢ
	Hoàng Hữu Văn
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
	Một số kĩ năng dạy tốt môn Địa lí ở lớp 4B Trường Tiểu học xã Vân An.
	 Đề tài này đã được áp dụng trong môn Địa lí lớp 4B và khối 4 trường Tiểu học xã Vân An Đề tài này nhằm giúp học sinh lớp 4 nắm vững cách sử dụng bản đồ, lược đồ và các bảng số liệu một cách hiệu quả. Nó còn giúp cho các em say mê khám phá môi trường xung quanh. Ngoài ra còn giúp học sinh biết được các mối quan hệ giữa điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội, xác lập được mối quan hệ đơn giản giữa các yếu tố tự nhiên với nhau. Thông qua môn học giúp học sinh thêm yêu quê hương đất nước, con người Việt Nam.
	Sau khi nghiên cứu và thử nghiệm có kết quả, tôi đã cùng đồng nghiệp của mình áp dụng đề tài này vào giảng dạy tại lớp 4B. Nó đã giúp các em hứng thú học tập hơn. 
	Lợi ích kinh tế: Học sinh tự tìm tòi qua nhiều kênh khác nhau. Giáo viên và học sinh không mất tiền mua đồ dùng.
 Lợi ích xã hội: học sinh được tham giao trao đổi tích cực trong các hoạt động, chú ý quan sát và có hứng thú với môn học, không nhàm chán và đơn điệu như các bài trước đây nữa.
- Bài giảng hay, có sức thuyết phục hơn, học sinh yêu thích giờ học, thích lắng nghe, quan sát hơn. 
 - Đối với bản thân: việc nghiên cứu đề tài khoa học này đã giúp tôi nắm vững thêm về kiến thức về môn Địa lí, nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác giảng dạy.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------- 
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cấp cơ sở huyện Chi Lăng.
	Tôi ghi tên dưới đây:
Số TT
Họ và tên
Ngày tháng năm sinh
Nơi công tác (hoặc nơi thường trú)
Chức danh
Trình độ chuyên môn
Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến 
1
Hoàng Hữu Văn
27/08/1973
Trường TH xã Vân An 
Giáo viên
Cao đẳng
100%
Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Một số kỹ năng để dạy tốt môn Địa lí ở lớp 4B trường Tiểu học xã Vân An, Chi Lăng, Lạng Sơn.
	- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học xã Vân An, huyện Chi Lăng, Lạng Sơn.
- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục 
- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 18/9/2019.
- Mô tả bản chất của sáng kiến: Với sáng kiến: “Một số kỹ năng dạy tốt môn Địa lí lớp 4B trường Tiểu học xã Vân An”.Tôi đã giúp học sinh cách học môn Địa lí, cách chỉ bản đồ, lược đồ và phân tích các số liệu một cách khoa học. Từ đó học sinh bình tĩnh, tự tin hơn trong các tiết học. Các

File đính kèm:

  • docDe day tot mon Dia ly o truong Tieu hoc Van AnChi Lang Lang Son_12753106.doc
Giáo án liên quan