Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp về tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số

1. Thời gian thực hiện:

 Từ tháng 9/2017 đến tháng 5/2018.

 2. Đánh giá thực trạng

 2.1 Thuận lợi:

 - Luôn được sự hướng dẫn, chỉ đạo của chuyên môn Phòng Giáo dục & Đào tạo Sơn Hà và của Ban giám hiệu Trường Mẫu giáo Sơn Thủy.

 - Lớp ở điểm trường chính, điều kiện đi lại thuận lợi, học sinh được ở bán trú tại trường.

 - Trường lớp khang trang sạch sẽ, đồ dùng đồ chơi phục vụ cho việc dạy và học đầy đủ.

 - Bản thân rất nhiệt huyết với nghề, ham học hỏi, tham gia đầy đủ các chuyên đề đổi mới của ngành học mầm non

 2.2 Khó khăn:

 - Đa phần trẻ đều là người dân tộc thiểu số Hre (chiếm hơn 60% tổng số học sinh của lớp), việc tạo thói quen và bồi dưỡng tiếng Việt của các cháu ở gia đình và cộng đồng cũng gặp khó khăn vì nhiều người trong gia đình không nói được tiếng Việt hoặc ít sử dụng tiếng Việt nên việc sinh hoạt giao tiếp trong gia đình hầu như bằng tiếng mẹ đẻ.

 Vì vậy, khi trẻ ra lớp thường chưa nói và hiểu được tiếng Việt. Bên cạnh đó, trình độ dân trí vẫn còn thấp, các gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em. Một số phụ huynh nhận thức chưa đồng đều cho là lứa tuổi này còn nhỏ việc học chưa cần thiết nên đưa trẻ đến trường chưa thường xuyên.

 Nhiều em học sinh vì hoàn cảnh gia đình khó khăn nên thường xuyên phải nghỉ học để ở nhà giúp đỡ gia đình như giữ em, chăn bò.

 

doc11 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 527 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp về tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU....Trang 2
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:.....................Trang 2
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: ............................Trang 3
3 . ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.......Trang 3
4. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT THỰC NGHIỆM....................................Trang 3
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU..........Trang 3
II. NỘI DUNG . .Trang 4
1. THỜI GIAN THỰC HIỆN.................................................................Trang 4
2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG..............................................................Trang 4
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN....Trang 5
1. CĂN CỨ THỰC HIỆN...Trang 5
2. NỘI DUNG GIẢI PHÁP VÀ CÁCH THỰC HIỆN...................Trang 5
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ........Trang 10
1. KẾT LUẬN...Trang 10
2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .....Trang 10
3. KIẾN NGHỊ......Trang 10
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
	1. Lý do chọn đề tài
	Trong hệ thống giáo dục quốc dân thì giáo dục mầm non được xem là cấp học đầu tiên và quan trọng nhất, vì đây là cấp học đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, nhận thức, tình cảm xã hội và thẩm mỹ cho trẻ em. Để trẻ phát triển được một cách toàn diện thì không thể quên vai trò của ngôn ngữ. Vì ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển bởi nó bảo đảm sự đa dạng về văn hóa và giúp các nền văn hóa có thể giao thoa, trao đổi với nhau.
	Trong chương trình giáo dục lứa tuổi mầm non ở thế giới cũng như ở Việt Nam ta đã đặt ra vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ có vị trí vô cùng quan trọng. Vì ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng đến sự phát triển nhân cách của trẻ. Khi vốn ngôn ngữ của trẻ phong phú thì khả năng diễn đạt câu từ của trẻ mạch lạc và khả năng hiểu người khác khi giao tiếp với mình cũng dễ dàng hơn. Đặc biệt đối với trẻ là người dân tộc thiểu số thì chúng ta cần quan tâm hơn nữa trong quá trình dạy ngôn ngữ cho trẻ.
	Nghị quyết 40/2002/NQ-QH của Quốc Hội khóa IX về đổi mới giáo dục phổ thông đã khẳng định: tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông được đưa vào dạy học thống nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tiếng Việt trong nhà trường tồn tại với hai tư cách: vừa là một môn học vừa là công cụ giao tiếp, học tập của học sinh. Thực tế cho thấy chất lượng học tập của học sinh dân tộc thiểu số phụ thuộc rất nhiều vào khả năng sử dụng tiếng Việt của học sinh. Phần lớn trẻ dân tộc thiểu số khi tới trường, lớp đều chưa nói và hiểu được tiếng Việt.
	Tìm hiểu thực tế tại địa phương, tôi nhận thấy 100% các em học sinh dân tộc thiểu số thường dùng tiếng mẹ đẻ nên rất khó khăn trong việc tiếp nhận tiếng Việt. Đây cũng là điểm mấu chốt dẫn đến việc các em tiếp thu bài giảng của thầy, cô giáo bằng ngôn ngữ tiếng Việt còn khá chậm. Vì vậy, tăng cường dạy tiếng Việt cho học sinh là người dân tộc thiểu số là vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay.
	Là một giáo viên được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo 5 tuổi đã 10 năm học liền (từ năm học 2007-2008 đến năm học 2017 – 2018). Trong quá trình chăm sóc dạy dỗ các cháu do tôi phụ trách, qua nhiều năm học tôi thấy được những khó khăn khi trình độ nhận thức của học sinh là người dân tộc thiểu số còn hạn chế vì vốn tiếng Việt của các cháu chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến chất lượng dạy và học còn thấp. Cũng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, tôi đã tìm tòi, nghiên cứu nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, nắm bắt nhu cầu và khả năng của trẻ, để từ đó tôi đề ra cho mình nhiệm vụ là phải nghiên cứu làm sao để dạy ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ là người dân tộc thiểu số, giúp cho trẻ có thể nói và giao tiếp bằng tiếng Việt để trẻ bước vào lớp 1 một cách tự tin và đạt kết quả tốt nhất. Từ những thực trạng trên, tôi đã xây dựng "Một số giải pháp về tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số".
 	2. Mục đích nghiên cứu:
	Tôi quyết định lựa chọn đề tài này với mục đích tìm các giải pháp để nâng cao vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số tại nhà trường. Từ đó vận dụng những kiến thức có sẵn và qua học hỏi để giúp trẻ được phát triển ngôn ngữ tiếng Việt một cách đầy đủ và mạch lạc nhất ngay khi trẻ bước chân vào Trường Mầm non với mong muốn trẻ sẽ tiếp nhận tri thức một cách dễ dàng và đầy đủ nhất qua đó trẻ sẽ tự tin bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ của mình với những người xung quanh một cách tốt nhất. 
	3. Đối tượng nghiên cứu
	Căn cứ về nội dung của đề tài tôi chọn đối tượng nghiên cứu là các cháu 5-6 tuổi là người dân tộc thiểu số của lớp lá A.
	4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm:
	Tôi chọn đối tượng khảo sát thực nghiệm là các cháu 5-6 tuổi là người dân tộc thiểu số đang học tại lớp Lá A, năm học 2017 - 2018.
	5. Phạm vi nghiên cứu:
	 - Thời gian nghiên cứu: từ đầu tháng 9/2017 đến tháng 5/2018.
PHẦN 2: NỘI DUNG
	1. Thời gian thực hiện:
	Từ tháng 9/2017 đến tháng 5/2018.
 	2. Đánh giá thực trạng
	2.1 Thuận lợi:
 	 - Luôn được sự hướng dẫn, chỉ đạo của chuyên môn Phòng Giáo dục & Đào tạo Sơn Hà và của Ban giám hiệu Trường Mẫu giáo Sơn Thủy.
 	- Lớp ở điểm trường chính, điều kiện đi lại thuận lợi, học sinh được ở bán trú tại trường.
	- Trường lớp khang trang sạch sẽ, đồ dùng đồ chơi phục vụ cho việc dạy và học đầy đủ.
 	- Bản thân rất nhiệt huyết với nghề, ham học hỏi, tham gia đầy đủ các chuyên đề đổi mới của ngành học mầm non
	 2.2 Khó khăn:
	- Đa phần trẻ đều là người dân tộc thiểu số Hre (chiếm hơn 60% tổng số học sinh của lớp), việc tạo thói quen và bồi dưỡng tiếng Việt của các cháu ở gia đình và cộng đồng cũng gặp khó khăn vì nhiều người trong gia đình không nói được tiếng Việt hoặc ít sử dụng tiếng Việt nên việc sinh hoạt giao tiếp trong gia đình hầu như bằng tiếng mẹ đẻ. 
	Vì vậy, khi trẻ ra lớp thường chưa nói và hiểu được tiếng Việt. Bên cạnh đó, trình độ dân trí vẫn còn thấp, các gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em. Một số phụ huynh nhận thức chưa đồng đều cho là lứa tuổi này còn nhỏ việc học chưa cần thiết nên đưa trẻ đến trường chưa thường xuyên.
	Nhiều em học sinh vì hoàn cảnh gia đình khó khăn nên thường xuyên phải nghỉ học để ở nhà giúp đỡ gia đình như giữ em, chăn bò... 
	2.3 Khả năng sử dụng tiếng Việt của trẻ
	Các cháu mới ra lớp, khả năng sử dụng tiếng Việt còn nhiều hạn chế.
Khả năng nghe
Khả năng hiểu nghĩa 
Khả năng sử dụng câu
5/18 cháu
4/18
2/18 cháu
27,77%
22,22%
11,11%
PHẦN 3: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
	1. Căn cứ thực hiện:
 	Tôi mạnh dạn đưa ra đây một số giải pháp mà bản thân đã tích lũy nhiều năm bằng những kinh nghiệm thực tế giảng dạy. Những giải pháp này đã được áp dụng và thực hiện có hiệu quả tại lớp Lá A Trường Mẫu giáo Sơn Thủy, để cùng đồng nghiệp chia sẻ. 
	2. Nội dung, giải pháp và cách thực hiện:
	2.1 Môi trường giao tiếp giữa cô và trẻ, giữa trẻ và trẻ:
	Thiết nghĩ việc đầu tiên để dạy trẻ nói được tiếng Việt thì chúng ta cần làm đó là tạo sự gần gũi, tự tin và mạnh dạn ở trẻ. Để làm được điều đó thì cô giáo luôn tạo không khí tiết học sôi nổi, nhẹ nhàng, hấp dẫn.Học sinh là người dân tộc thiểu số vốn dĩ rất nhút nhát, ngại giao tiếp với bạn bè người Kinh và cô giáo. Nhiều trẻ khi cô hỏi thì chỉ im lặng vì do trẻ không hiểu được câu hỏi hoặc là không tự tin với những câu trả lời bằng tiếng Việt của mình do vốn tiếng Việt của trẻ còn hạn chế. Chính vì vậy cô giáo luôn động viên khuyến khích trẻ kịp thời.
	Vào đầu năm học, tôi đã "nhờ" vài cháu có vốn tiếng Việt tương đối giúp tôi "phiên dịch" lại cho các cháu khác. Phương pháp này rất gần gũi và nhẹ nhàng giúp cho giáo viên và học sinh cảm thấy thoải mái, không còn sự ngăn cách mà không tốn nhiều thời gian, vì các cháu ở cùng xóm làng, cùng lứa tuổi nên sẽ dễ hơn đối với cô giáo. Đây là một hình thức tổ chức dạy học không mới nhưng rất phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số còn hạn chế về vốn tiếng Việt. 
 	2.2 Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của từng trẻ
	Trẻ ở lớp tôi có cháu mới đi học lần đầu nhưng cũng có cháu ra lớp từ năm trước. Đối với các cháu đã đi học, ngay từ ngày đầu nhận danh sách lớp tôi thường trao đổi ngay với giáo viên cũ của trẻ để nắm được thói quen sinh hoạt, đặc điểm sinh lý, sức khỏe của trẻ và đặc biệt là để tìm hiểu về khả năng nói và sử dụng tiếng Việt của trẻ. để từ có biện pháp phù hợp. 
	Đối với các cháu lần đầu tiên đi học, trong tuần lễ được ở lại làm quen, ngoài việc trao đổi với phụ huynh về 1 ngày của trẻ ở trường, tôi còn trao đổi với phụ huynh về nội quy của nhóm lớp như: cho bé đi học đều, đúng giờ, đồng thời đề nghị phụ huynh kết hợp với cô trong việc rèn nề nếp và thói quen lễ phép. Cô giáo và bố mẹ phải là tấm gương cho trẻ noi theo. Chính việc rèn nề nếp thói quen của trẻ cũng là một cách để dạy tiếng Việt cho trẻ. Ví dụ: dạy cho trẻ chào cô, chào bố mẹ, chào các bạn khi đón và trả trẻ.
Đón trẻ
	Chính vì hiểu được tâm lý của học sinh dân tộc thiểu số, bản thân tôi và tổ chuyên môn đã có những chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh là người dân tộc thiểu số. Tùy theo các môn học nhưng đều chú trọng đến những yếu tố vừa truyền đạt kiến thức của bài học đồng thời tăng cường tiếng Việt bằng những trò chơi ở tất cả các môn học (chủ yếu là các trò chơi về ngôn ngữ, trò chơi trí tuệ sử dụng ngôn ngữ).
	2.3 Tăng cường tiếng Việt cho trẻ qua vui chơi:
	- Trò chơi đóng vai: đóng vai là một trong những phương pháp gây được hứng thú trong học tập cho trẻ (học mà chơi, chơi mà học), rèn tính tự tin, tinh thần đoàn kết đặc biệt đây cũng là điều kiện tốt để tăng cường tiếng Việt cho học sinh, các cháu rất hào hứng tham gia, tiết học trở nên sôi động và hấp dẫn, hiệu quả ..vốn tiếng Việt của các cháu cũng được cải thiện đáng kể. 
Trò chơi đóng vai
	2.4 Thảo luận nhóm
 	 - Thảo luận theo nhóm là một trong những phương pháp có sự tham gia tích cực của học sinh. Với những kết quả đạt được trong quá trình sử dụng phương pháp thảo luận nhóm mà các cháu ở đây đã trở nên mạnh dạn, tự tin, vốn tiếng Việt của các cháu đã được cải thiện rất đáng kể. Các cháu đã có khả năng tự đặt ra những câu hỏi, đưa ra những ý kiến của mình. Việc giao tiếp của các cháu cũng dễ dàng hơn, đặc biệt tạo điều kiện để các cháu bổ sung vốn tiếng Việt một cách hiệu quả.
Thảo luận nhóm	
	2.5 Tăng cường tiếng Việt qua làm quen văn học.
	Trong khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, tôi đã chú trọng không chỉ cho trẻ hiểu được nội dụng câu chuyện, bài thơ mà còn chú trọng làm giàu vốn từ, mở mang vốn từ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu cho trẻ, củng cố nghĩa của từ để trẻ nắm được, trên cơ sở đó trẻ có vốn từ đa dạng. Ngoài ra còn tích cực hoá vốn từ cho trẻ, đây là vấn đề quan trọng để giúp trẻ tích cực trong giao tiếp nhằm phát huy được khả năng nói tiếng Việt cho trẻ. Khi dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học thì tôi đã giúp cho trẻ nâng cao nhận thức và phát triển vốn từ cho trẻ bằng cách đặt câu hỏi, hoặc cho trẻ kể lại câu chuyện, trẻ có chú ý mới nhớ được câu chuyện, bài thơ Văn học giúp trẻ vốn kinh nghiệm, vốn sống. Vốn sống càng phong phú thì vốn từ của trẻ càng phong phú..
	Giờ tăng cường tiếng Việt
	2.6 Tăng cường tiếng Việt ở mọi lúc mọi nơi
	Ngoài việc dạy trẻ nói tiếng Việt thông qua các giờ học thì bản thân tôi nghĩ là phải để trẻ học nói bằng cách nói qua môi trường sống thực của trẻ. Vì vậy tạo cơ hội để trẻ được thực hành nói là rất quan trọng. Nhiều khi chúng ta tưởng như trẻ học tiếng Việt ở trong giờ học nghiêm chỉnh thì học được nhiều hơn là học ở ngoài giờ học. Hoàn toàn không phải vậy. Trẻ em không thụ động. Trẻ em học lẫn nhau, học với nhau trong khi chơi, khi nghe mọi người nói chuyện, nghe cô kể chuyện , học trên tivi v.v
	Chính vì vậy mà tôi đã nghĩ mình cần phải tạo môi trường tiếng Việt cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, ngoài những tranh ảnh được treo ở lớp, tôi còn làm rất nhiều từ gắn ở mọi nơi: cửa lớp, cửa sổ, nhà vệ sinh
	Bên ngoài lớp có góc thiên nhiên, tôi cũng in chữ và dán lên các chậu cây để thông qua hình ảnh trẻ có thể "đọc" được chữ
Góc thiên nhiên 
	Và tôi cũng đã thực hiện được góc thư viện cho lớp mình, ở đó vào giờ đón và trả trẻ, phụ huynh có thể đến để đọc sách cho trẻ nghe.
	2.7 Phối hợp với phụ huynh và cộng đồng trong việc dạy tiếng Việt cho trẻ
	Ngoài việc dạy cho trẻ nói tiếng Việt ở trường, tôi thiết nghĩ việc học tiếng Việt thông qua gia đình là rất quan trọng. Bởi vì gia đình là trường học đầu tiên và vô cùng quan trọng đối với mỗi đứa trẻ đặc biệt là việc hình thành ngôn ngữ cho trẻ. 
 	Hiểu được tầm quan trọng của tiếng Việt đối với học sinh dân tộc thiểu số trước khi vào lớp nên tôi thường xuyên phối hợp với các đoàn thể thôn lồng ghép nhắc nhở phụ huynh học sinh trong các cuộc họp, sinh hoạt thôn xóm, quan tâm đến việc bảo tồn, phát huy tiếng nói của dân tộc mình và tầm quan trọng của tiếng Việt trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh. Từ đó có thói quen sử dụng tiếng phổ thông trong sinh hoạt hàng ngày. Bản thân tôi luôn thường xuyên trao đổi với phụ huynh để phối hợp việc sử dụng tiếng Việt trong cuộc sống hằng ngày. 
	2.8 Bồi dưỡng tiếng dân tộc:
	Trong giờ dạy tăng cường tiếng Việt cho trẻ, tôi luôn tìm tòi những từ mới đối với trẻ, thông qua phụ huynh tôi học từ đó bằng tiếng mẹ đẻ của trẻ, tìm ra nghĩa của từ. Bên cạnh chọn từ, tôi cũng luôn chú ý tìm chọn tranh ảnh phù hợp, đẹp và sinh động để dạy trẻ. Trong quá trình dạy việc luyện câu vô cùng quan trọng. Tôi thường chọn cháu đã nói được tiếng Việt và cháu chưa nói được để các cháu luyện nói cùng nhau.
	Bên cạnh đó, bản thân tôi thấy được sự cần thiết và thuận lợi trong quá trình giảng dạy khi giáo viên có thể nghe và nói được tiếng dân tộc nên tôi đã tự học. Khi giáo viên có được vốn tiếng dân tộc cơ bản cần thiết thì việc giao tiếp với học sinh trở nên gần gủi hơn, tạo điều kiện để giải thích cho các em hiểu được những tiếng, từ, câu khó, hướng dẫn cho các em phát âm tiếng Việt một cách chính xác, có thể xem đây là một trong những giải pháp, là phương tiện thiết thực để tăng cường tiếng Việt và nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh dân tộc thiểu số một cách hiệu quả. 
PHẦN 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
	1. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện tại trường lớp của mình, tôi đã đưa ra những "Một số giải pháp về tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số" phù hợp hợp với tình hình trường lớp của mình.
Trong khi thực hiện các biện pháp trẻ được học và chơi trong môi trường tiếng Việt, giúp khả năng nhận thức, tiếp thu bài của trẻ tăng lên, trẻ luôn vui vẻ để đến lớp và tham gia các hoạt động. Trẻ thích thể hiện mình với cô và các bạn, trẻ mạnh dạn tự tin trong giao tiếp, chất lượng ngôn ngữ tiếng Việt tăng lên rõ rệt. Từ đó là chất lượng giáo dục trẻ cũng tăng theo.
	2. Kết quả nghiên cứu
Qua việc thực hiện các giải pháp nêu trên, bản thân tôi đã thấy được hiệu quả của việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ. Khi trẻ có được vốn tiếng Việt đủ để nghe, hiểu thì việc giao tiếp hàng ngày đặc biệt là quá trình tiếp thu kiến thức sẽ trở nên dễ dàng hơn. Thực tế cho thấy, những cháu học sinh người dân tộc thiểu số có được vốn tiếng Việt cơ bản khi đến lớp thì việc nhận thức của các cháu không kém nhiều so với những cháu học sinh người Kinh thậm chí học lực ngang bằng hoặc hơn. 
	Cụ thể trong năm học vừa qua đã thu được kết quả đáng mừng, đến nay lớp tôi đã đạt được kết quả như sau:
Khả năng nghe
Khả năng hiểu nghĩa 
Khả năng sử dụng câu
18/18 cháu
17/18
16/18 cháu
100%
94,44%
88,88%
	Nhìn kết quả trên trẻ tôi vô cùng phấn khởi với những gì mình đã thực hiện được . Đúng như nhà giáo dục học Xô Viết Macrencô đã nói : "Không có trẻ con nào là không dạy được ,chỉ có phương pháp giáo dục của ta tồi thôi"
 	 Với các hình thức tôi thực hiện trong năm học vừa qua đã thu được những kết quả đáng mừng. Từ đó bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm giúp trẻ nói được tiếng Việt đạt kết quả tốt thì cần làm những việc làm sau đây: 
 	 - Nghiên cứu tham khảo tài liệu, học hỏi bạn đồng nghiệp không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn.
 	 - Cô yêu nghề mến trẻ tận tâm với công việc của mình. Luôn tìm tòi nghiên cứu các phương pháp, hình thức để dạy trẻ phù hợp và đạt kết quả cao.
	 - Giáo viên trao đổi thường xuyên với phụ huynh những gì trẻ làm được và chưa làm được để cùng tìm ra nguyên nhân và cách dạy trẻ tốt nhất.
 	 - Giáo viên luôn tạo cơ hội cho trẻ tự nói lên các suy nghĩ của bản thân để kích thích trẻ nói tiếng Việt.
	3. Kiến nghị
	Do đề tài được áp dụng trong phạm vi hẹp ở một lớp học, vì thế một số kinh nghiệm tôi đưa ra không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Qua đây tôi rất mong được cán bộ chuyên môn Phòng giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường và bạn đồng nghiệp đọc, góp ý, xây dựng bổ sung thêm để giúp tôi có nhiều kinh nghiệm tốt hơn để áp dụng trong quá trình công tác của bản thân, đặc biệt để nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số.
 Xin chân thành cảm ơn!	 
 XÁC NHẬN 
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ 
Sơn Thủy, ngày 10 tháng 12 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là đề tài sáng kiến bản thân thực hiện, không sao chép nội dung của người khác, nếu vi phạm chịu xử lý theo quy định.
Người thực hiện
 Trần Thị Quỳnh Trang

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_ve_tang_cuong_tieng_v.doc
Giáo án liên quan