Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 đọc đúng, đọc diễn cảm - Đỗ Văn Chiên
2.2.2. HS đọc sai từ (đọc tách rời các tiếng trong từ phức), tôi giúp HS nhận biết
được nghĩa của từ để có cách đọc đúng.
VD: Bài Kì diệu rừng xanh, trong bài có câu: “Nắng trưa đã rọi xuống đỉnh đầu mà rừng sâu vẫn ẩm lạnh, ánh nắng lọt qua lá trong xanh.” HS đã đọc tách rời “ẩm-lạnh”, tôi đã nói: ẩm lạnh là từ ghép nên cần đọc liền để đúng nghĩa.
2.2.3. HS đọc sai câu (ngắt nghỉ hơi không đúng chỗ, đọc sai ngữ điệu, ), tôi gợi ý để HS nhận ra chỗ sai, tự tìm ra được cách đọc phù hợp.
Cụ thể: Việc ngắt nghỉ hơi phải phù hợp với dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm, dấu hai chấm. Đối với những bài văn xuôi, khi đọc ngoài việc tìm những dấu câu đặc biệt ( câu hỏi, câu cảm, câu khiến) để hướng dẫn học sinh đọc đúng, tôi còn chú trọng đến việc ngắt hơi ở những chỗ không có dấu câu nhưng là những chỗ tách ý , tôi đã dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp để xác định đúng cách ngắt lấy hơi đúng. Đối với những bài thơ cần ngắt nhịp đúng. Với bài thơ lục bát, nhịp thơ phổ biến là 2/4, 4/2, 3/5, 2/6. Dòng thơ 7 chữ nhịp thơ thường là 2/5, 5/2, 3/4, 4/3. Dòng thơ 5 chữ nhịp thơ thường là 2/3, 3/2.
ủa bài văn, bài thơ. Do đó các em không hiểu được nội dung, không hiểu được nghệ thuật, không hiểu được cái hay cái đẹp của tác phẩm . - Các em chưa có thói quen xem trước bài mới ở nhà nên việc đọc ở lớp không hiệu quả. 2.2. Về phía giáo viên: - Chưa thường xuyên rèn đọc. Khi học sinh đọc sai đọc lại để sửa thì chưa rèn dứt điểm những phụ âm đầu hay sai. Nhiều giáo viên đọc chưa hay làm ảnh hưởng không ít tới việc đọc của học sinh. Hơn nữa trong giờ tập đọc có giáo viên chưa chú ý đến học sinh đọc sai, chỉ chú ý đến học sinh đọc đúng, đọc hay. - Trong giảng dạy việc rèn đọc diễn cảm mang tính chất hình thức, nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh rèn đọc: đọc thành tiếng, đọc thầm. Ngược lại, trong giờ tập đọc có giáo viên chỉ chú trọng đến việc tìm hiểu nội dung bài, số lượng học sinh được đọc trong lớp ít. Do đó các em chưa biết khi nào đọc lên giọng, hạ giọng, khi nào nhấn giọng từ ngữ. Nhất là khi đọc lời các nhân vật chưa thể hiện được tính cách của các nhân vật. - Thực tế ở giờ dạy tập đọc, giáo viên dành thời gian cho việc luyện đọc của học sinh còn ít, còn áp đặt cách đọc cho các em, học sinh phải đọc một cách thụ động. Nên bản thân học sinh tự cho rằng mình đã đọc thông thạo, do đó không chú tâm rèn kĩ năng đọc lưu loát, đọc diễn cảm. Giáo viên ít tổ chức, ít gợi ý để học sinh khám phá tìm hiểu cách đọc dẫn đến hiệu quả đạt được trong giờ tập đọc chưa cao. - Chưa chú ý đến phương pháp dạy học mới. Đó là giáo viên chỉ là người gợi ý, dẫn dắt, còn học sinh sẽ là người chủ động tìm ra cách đọc đúng, đọc hay. Do đó việc rèn cho học sinh có thói quen nhận xét bạn đọc đúng hay sai để sửa cho bạn và điều chỉnh mình khi mình đọc sai là việc làm cần thiết. - Chưa chú ý đến việc cho học sinh luyện đọc theo nhóm nên trong giờ học còn nhiều em chưa được đọc. 2.3. Do các yếu tố khác: - Do ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương phát âm chưa chuẩn, nên học sinh còn đọc sai, phát âm nhầm lẫn l/n. - Một số em do bố mẹ bận công việc vµ kiÕn thøc h¹n chÕ nên chưa thực sự quan tâm đến việc sửa lỗi hoÆc kh«ng söa ®îc c¸ch đọc cho con thường xuyên. Kiểm tra kh¶o s¸t chất lượng đọc đầu năm học 2019 - 2010, kết quả như sau: Tổng số học sinh : 25 em Kĩ năng đọc Số lượng Tỉ lệ Ghi chú Đọc nhỏ, ấp úng, phát âm chưa chuẩn 2 8 Đôi khi đọc sai từ Đọc to nhưng còn sai từ (thêm - bớt từ) 4 16 Đôi khi đọc quá nhanh Đọc to, lưu loát, rõ ràng nhưng chưa diễn cảm 15 60 Chưa phân biệt được giọng đọc Đọc to, lưu loát, rõ ràng, diễn cảm tương đối tốt 4 16 Đôi khi chưa nhấn từ đúng KÕt qu¶ kiÓm tra ®Çu n¨m cho thÊy chÊt lîng ®äc diÔn c¶m cha cao. Như vậy chất lượng đọc đúng và diễn cảm còn h¹n chÕ, việc đề ra các biện pháp rèn học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm là vô cùng cần thiết. PHẦN 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC SINH 1.Chuẩn bị cho việc dạy - đọc diễn cảm 1.1. Đối với Giáo viên: 1.1.1.Phân loại học sinh theo nhóm đọc: Sau khi nhận lớp, tôi đã cho lớp ổn định tổ chức, qua tìm hiểu, điều tra để nắm chắc đối tượng học sinh, sau đó tiến hành lựa chọn, phân loại học sinh theo kĩ năng đọc gồm 3 đối tượng sau: - Đối tượng 1: Học sinh biết đọc diễn cảm. - Đối tượng 2: Học sinh đọc to rõ, lưu loát chưa diễn cảm. - Đối tượng 3: Học sinh đọc nhỏ, ấp úng, phát âm chưa chuẩn (hoặc đọc to nhưng còn sai từ). Dựa vào đó tôi đã sắp xếp chỗ cho những học sinh yếu ngồi cạnh những em đọc khá để tạo thành những đôi bạn cùng tiến. Tiếp theo tôi giới thiệu với các em cấu tạo chương trình phân môn Tập đọc để các em nắm được các chủ điểm chính trong từng học kì và cả năm học, đồng thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản về việc rèn kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm. 1.1.2. Hướng dẫn học sinh biết cách sử dụng các kí hiệu để dựa vào đó luyện đọc cho đúng và diễn cảm. Cụ thể: / Ngắt lấy hơi Nhấn giọng Nhấn giọng, kéo dài hơi Cao giọng Vắt dòng thơ trên với dòng thơ dưới Kéo dài và hạ giọng ở cuối câu 1.2. Đối với học sinh: 1.2.1. Tư thế đọc - Khi ngồi đọc: cần ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách khoảng từ 30 - 35cm, cổ và đầu thẳng. - Khi đứng đọc: Tư thế thoải mái, hai tay cầm sách cách mắt khoảng 30cm. - Khi đọc phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp thì sẽ không bị ngắc ngứ , thừa hoặc thiếu chữ. 1.2.2.Có ý thức tự đọc - Yêu cầu học sinh đọc kĩ trước bài ở nhà , có đọc trước bài ở nhà học sinh mới biết được từ nào khó đọc , hay sai để đến lớp nghe cô hướng dẫn sửa chữa. - Học sinh thường xuyên rèn đọc đúng ở bất kì một văn bản nào nói chung hay trong các tiết tập đọc nói riêng. - Cần có sự ham thích đọc, có ý thức tự đọc. Sưu tầm sách, báo, truyện để đọc. 2. Luyện đọc đúng tiếng, từ, câu: Luyện đọc thành tiếng là cơ hội để GV trực tiếp dạy kĩ năng đọc cho cho từng HS. Tuy nhiên, việc dạy học chỉ đạt hiệu quả tốt và phù hợp với từng đối tượng HS khi GV “biết nghe HS đọc” để từ đó lựa chọn nội dung và biện pháp dạy học cho thích hợp. Vì đọc là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác. Đọc đúng là không đọc ngọng, đọc thừa, không đọc thiếu từng âm, vần và tiếng. Đọc đúng còn bao gồm đọc đúng các âm thanh, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ. 2.1. Tìm hiểu nguyên nhân học sinh đọc sai tiếng, từ, câu: - Nguyên nhân về sinh lí: mắt kém nên nhìn không rõ chữ, bộ máy phát âm còn khiếm khuyết (lưỡi ngắn nên đọc nghe không tròn tiếng; tiếng có dấu hỏi, dấu ngã phát âm không chuẩn). - Nguyên nhân về tâm lí: chưa tập trung vào hoạt động đọc, hoặc đọc vội vàng, hấp tấp, ảnh hưởng thói quen phát âm ở địa phương. - Nguyên nhân về kiến thức, kĩ năng: chưa nắm vững cấu tạo tiếng, hoặc chưa nắm chắc chức năng ngữ pháp nên ngắt, nghỉ lấy hơi chưa đúng. 2.2. Biện pháp: Khi học sinh đọc sai, tôi đã phân loại lỗi đọc, đoán biết trước nguyên nhân để có cách sửa thích hợp nhằm đảm bảo tính khoa học. Cụ thể: 2.2.1. HS đọc sai tiếng. Trường hợp này HS thường sai ở lỗi phát âm hoặc đọc sai do không nhìn kĩ vần, đọc quá nhanh nên dẫn đến đọc sai từ, thêm hoặc bớt từ. * Trường hợp sai phụ âm đầu (thông thường là n-l): tôi yêu cầu đọc lại và gợi ý sửa lỗi phát âm (có thể phải mô tả hoạt động của các cơ quan phát âm và phát âm mẫu để HS làm theo), chỉ cần HS nhận biết được cách phát âm và có ý thức phát âm đúng, chưa đòi hỏi phải sửa ngay được lỗi mắc. VD: Các em hay phát âm sai n/l, tôi nói khi phát âm “n”: đầu lưỡi thẳng (vì nó là âm tắc), “l”: đầu lưỡi cong lên. Sau đó phát âm mẫu để HS nhìn - nghe đọc lại. Tôi cũng động viên HS đó luyện đọc các từ có phụ âm đầu là n-l, 1 tuần sau sẽ nghe đọc xem tiến bộ đến đâu. Chẳng hạn: - Luyện phát âm đúng “n” trong các từ sau: na ná, nao núng, nấu nướng, nem nép, nết na, nền nã, nâng niu, nóng nực, nuôi nấng, nơp nớp, nao núng, nao nức, năng nổ, nắn nót, não nùng, non nước, nồng nàn, nung nấu, nặng nề, nấn ná, ... - Luyện phát âm đúng âm “l” trong các từ: la liệt, lạc lõng, lanh lảnh, lảnh lót, lành lặn, lấp lánh, là lượt, lẳng lặng, lẫn lộn, lập loè, lấp ló, lả lướt, lầy lội, la lối, lừng lẫy, làm lụng, lạnh lẽo, lặc lè, lỏng lẻo, lóng lánh, lung linh, lửng lơ, lấm la lấm lét, lấp la lấp lánh, ... - Luyện cả “n” và “l”. náo loạn, nảy lửa, nói lại, nới lỏng, nước lửa, nức lòng, làng nước, làm nũng, lão nông, lâu năm, lên nước, lưu niên, ... * Trường hợp sai do đọc theo thói quen, không nhìn kĩ vần, đọc quá nhanh. Tôi tập cho các em tính cẩn thận hơn, bình tĩnh hơn khi đọc bài, nhìn kĩ từ ngữ khi đọc cho chính xác hơn. VD1: Bà:i Hành trình của bầy ong (Tiếng Việt tập 1 trang 117) có câu: Không gian là nẻo đường xa Thời gian vô tận mở ra sắc màu. HS đã đọc sai “sắc màu” thành “sắc mầu”, đây là trường hợp đọc sai do thói quen (hoặc chưa quan sát kĩ vần), tôi đã yêu cầu HS nhìn lại vần để đọc cho đúng. VD2: Bài Nghĩa thầy trò (Tiếng Việt tập 2 trang 79), câu đầu của bài là “Từ sáng sớm, các môn sinh đã tề tựu trước sân nhà cụ giáo Chu để mừng thọ thầy”. HS đã đọc sai “tề tựu” thành “tề tịu”, tôi đã yêu cầu nhẩm lại vần để đọc cho đúng. 2.2.2. HS đọc sai từ (đọc tách rời các tiếng trong từ phức), tôi giúp HS nhận biết được nghĩa của từ để có cách đọc đúng. VD: Bài Kì diệu rừng xanh, trong bài có câu: “Nắng trưa đã rọi xuống đỉnh đầu mà rừng sâu vẫn ẩm lạnh, ánh nắng lọt qua lá trong xanh.” HS đã đọc tách rời “ẩm-lạnh”, tôi đã nói: ẩm lạnh là từ ghép nên cần đọc liền để đúng nghĩa. 2.2.3. HS đọc sai câu (ngắt nghỉ hơi không đúng chỗ, đọc sai ngữ điệu, ), tôi gợi ý để HS nhận ra chỗ sai, tự tìm ra được cách đọc phù hợp. Cụ thể: Việc ngắt nghỉ hơi phải phù hợp với dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm, dấu hai chấm. Đối với những bài văn xuôi, khi đọc ngoài việc tìm những dấu câu đặc biệt ( câu hỏi, câu cảm, câu khiến) để hướng dẫn học sinh đọc đúng, tôi còn chú trọng đến việc ngắt hơi ở những chỗ không có dấu câu nhưng là những chỗ tách ý , tôi đã dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp để xác định đúng cách ngắt lấy hơi đúng. Đối với những bài thơ cần ngắt nhịp đúng. Với bài thơ lục bát, nhịp thơ phổ biến là 2/4, 4/2, 3/5, 2/6. Dòng thơ 7 chữ nhịp thơ thường là 2/5, 5/2, 3/4, 4/3. Dòng thơ 5 chữ nhịp thơ thường là 2/3, 3/2. VD: - “Ngày nay, khách vào thăm Văn Miếu - Quốc Tử Giám / còn thấy bên giếng Thiên Quang, dưới những hàng muỗm già cổ kính, 82 tấm bia/ khắc tên tuổi 1306 vị tiến sĩ/ từ khoa thi năm 1442/ đến khoa thi năm 1779/ như chứng tích về một nền văn hiến lâu đời.” (Nghìn năm văn hiến Tiếng Việt tập 1 trang 15) - “ Mấy con mang vàng / hệt như màu lá khộp đang ăn cỏ non. Những chiếc chân vàng /giẫm trên thảm lá vàng / và sắc nắng / cũng rực vàng trên lưng nó. Chỉ có ấy vạt cỏ xanh biếc / là rực lên giữa cái giang sơn vàng rợi.” (Kì diệu rừng xanh Tiếng Việt tập 1 trang 76) - “ Có cây đa / phải hỏi cây đa, có cây sung / phải hỏi cây sung, có mẹ cha / phải hỏi mẹ cha. Đi rừng lấy củi / mà không hỏi cha, đi suối lấy nước / mà chẳng nói với mẹ; bán cái này, mua cái nọ / mà không hỏi ông già bà cả là sai; phải đưa ra xét xử.” (Luật tục xưa của người Ê- đê Tiếng Việt tập 2 trang 56) - “ Trời xanh đây / là của chúng ta Núi rừng đây / là của chúng ta Những cánh đồng / thơm mát Những ngả đường / bát ngát Những dòng sông / đỏ nặng phù sa. ” ( Đất nước Tiếng Việt tập 2 trang 95) - “ Chắt trong vị ngọt / mùi hương Lặng thầm thay / những con đường ong bay Trải qua mưa nắng vơi đầy Men trời đất / đủ làm say đất trời Bầy ong giữ hộ cho người Những mùa hoa / đã tàn phai tháng ngày ” (Hành trình của bầy ong Tiếng Việt tập 1 trang 118) Tóm lại, để giúp HS đọc đúng, tôi lưu ý các điểm sau: + Với HS đọc chưa đúng do nguyên nhân nào thì tôi cũng cần có sự hợp tác với gia đình để tìm ra hướng giải quyết tốt nhất cho các em (như đi khám mắt, thường xuyên uốn nắn khi các em nói ngọng - đọc sai). + Khi phát hiện lỗi đọc của HS, tôi luôn có cách ứng xử mang tính sư phạm, như: không đột ngột “cắt ngang” lúc HS đang đọc để yêu cầu sửa cách phát âm; không “riết róng” đòi hỏi HS phải sửa ngay được lỗi đọc (nếu chưa sửa được trên lớp, HS có thể về nhà luyện thêm); luôn động viên kịp thời những cố gắng dù rất nhỏ của HS, tránh chê trách làm cho HS bi quan, xấu hổ. + Trong các tiết học Tập đọc, tôi luôn cố gắng tạo điều kiện cho nhiều học sinh được tham gia đọc thành tiếng với nhiều hình thức như: đọc tiếp nối đoạn, đọc trong nhóm 2, nhóm 4, đọc phân vai, đọc trước lớp, để có thể nghe và sửa kịp thời. 3. Luyện đọc thầm (đọc hiểu bài): Để giúp HS hiểu nội dung, ý nghĩa của bài Tập đọc thì phải chú ý rèn luyện khả năng đọc hiểu cho học sinh. Đây là việc làm quan trọng đối với học sinh lớp 5. Ngược lại, có hiểu được nội dung bài văn, bài thơ thì mới có cách đọc đúng, đọc hay và diễn cảm được. Việc luyện đọc hiểu thường được thực hiện trong bước đọc thầm. Đọc thầm có ưu thế hơn đọc thành tiếng vì nhanh hơn, vì người ta không phải chú ý đến việc phát âm mà chỉ tập trung hiểu nội dung điều mình đọc. Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản vừa đọc. Do đó, dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức, đọc để hiểu. Kết quả đọc thầm giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài. Tức là toàn bộ những gì đọc được. § Biện pháp: 3.1. Dựa vào hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài, tôi đã lựa chọn biện pháp và hình thức tổ chức dạy học thích hợp để luyện kĩ năng đọc thầm cho HS. Để việc đọc thầm (câu - đoạn - bài) có hiệu quả, trước khi HS đọc tôi đã giao nhiệm vụ cụ thể nhằm định hướng đọc hiểu (Đọc câu, đoạn hay khổ thơ nào ? Đọc để biết, hiểu, nhớ điều gì ? ) VD: Dạy bài Kì diệu rừng xanh (Tiếng Việt tập 1 trang 75) - Đọc thầm lần 1: Sau khi giới thiệu bài, 1 học sinh khá đọc bài, cả lớp đọc thầm. Mục đích: nắm nội dung bài. - Đọc thầm lần 2: Trong khi các bạn đọc nối tiếp đoạn (3 lượt), cả lớp cũng đọc thầm theo (2 lượt). Mục đích: luyện phát âm và hiểu thêm về các từ ngữ trong bài. - Đọc thầm lần 3: Khi GV đọc cả bài trước khi tìm hiểu bài, cả lớp đọc thầm theo. Mục đích: chuẩn cách đọc đúng tiếng, từ, ngắt câu dài. - Đọc thầm lần 4: HS đọc thầm đoạn 1. Mục đích : trả lời câu hỏi Đoạn 1 tác giả miêu tả gì ? (Những cây nấm rừng) và câu hỏi 1 trong SGK. + Đọc thầm lần 5: HS đọc thầm đoạn 2. Mục đích: tìm hiểu nội dung đoạn 2 để trả lời câu hỏi 2 trong SGK. + Đọc thầm lần 6: HS đọc thầm đoạn 3. Mục đích: tìm hiểu nội dung đoạn 3 để trả lời câu hỏi 3, 4 trong SGK. Như vậy, HS đã được đọc thầm gắn với yêu cầu trả lời câu hỏi tìm hiểu. 3.2. Để giúp học sinh đọc hiểu tốt , tôi còn chuẩn bị một số câu hỏi để học sinh hiểu thêm về nội dung bài, về nghệ thuật, chú ý các câu hỏi giúp học sinh tìm hiểu nghĩa của từ, đặt câu để làm rõ nghĩa của từ (ngoài những từ ngữ SGK đã giải thích). VD1: Dạy bài Thái sư Trần Thủ Độ (Tiếng Việt tập 2 trang15) Câu hỏi 2: Trước việc làm của người quân hiệu, Trần Thủ Độ xử lí ra sao ? Sau khi HS trả lời câu hỏi, tôi yêu cầu giải thích: con hiểu “kể rõ ngọn ngành” là như thế nào ? (nói rõ đầu đuôi sự việc) VD2: Dạy bài Đất nước (Tiếng Việt tập 2 trang 94) Sau khi HS trả lời câu hỏi 3: Nêu một, hai câu thơ nói lên lòng tự hào về đất nước tự do, về truyền thống bất khuất của dân tộc trong khổ thơ thứ tư và thứ năm ? Tôi yêu cầu HS tìm thêm những từ ngữ được lặp lại ? (đây, của chúng ta) à giảng tác dụng của việc lặp lại: nêu bật niềm tự hào, niềm hạnh phúc về đất nước giờ đây đã tự do, đã thuộc về chúng ta. VD3: Dạy bài Cửa sông ( Tiếng Việt tập 2 trang 74 ) Sau khi HS trả lời câu hỏi 3: Phép nhân hoá ở khổ thơ cuối giúp tác giả nói lên điều gì về “tấm lòng” của cửa sông đối với cội nguồn ? tôi hỏi thêm “ Qua hình ảnh cửa sông, tác giả muốn nói lên điều gì ? ” (Ca ngợi tình cảm thuỷ chung, uống nước nhớ nguồn) à Đó cũng chính là ý nghĩa của bài thơ. Tóm lại, những việc như : yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi, nêu ý chính của đoạn, hiểu được nội dung, nghệ thuật của bài đều nhằm giúp cho học sinh có cách đọc đúng, đọc diễn cảm. 4. Luyện đọc diễn cảm: Kĩ năng đọc diễn cảm các văn bản được luyện tập sau khi HS đã đạt được những yêu cầu tối thiểu về trình độ đọc (đọc đúng, rõ ràng, rành mạch,), sau khi HS đã tìm hiểu bài và nắm được nội dung, ý nghĩa bài đọc. Muốn đọc diễn cảm một văn bản, phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ điệu phù hợp với tình huống, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân vật hoặc tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung miêu tả trong văn bản. Dạy HS đọc diễn cảm, GV cần thông qua thực hành luyện đọc để hướng dẫn các em từng bước đạt được yêu cầu theo các mức độ từ thấp đến cao. 4.1.Yêu cầu đọc diễn cảm: (1) Biết đọc nhấn giọng các từ ngữ quan trọng trong câu (từ ngữ gợi tả, gợi cảm, từ ngữ “chìa khoá” làm nổi bật ý chính, ). (2) Biết thể hiện ngữ điệu (sự thay đổi về tốc độ,cao độ, cường độ, trường độ, ) phù hợp với từng loại câu (câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến). (3) Biết đọc phân biệt lời kể của tác giả với lời nhân vật. (4) Biết đọc phân biệt lời nhân vật phù hợp với lứa tuổi, với tính cách của từng nhân vật (người già, trẻ em, người tốt, kẻ xấu, ). (5) Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp với lứa tuổi, với tính cách của từng nhân vật (vui, buồn, trang nghiêm, giận dữ, ). Ngoài những điểm chung thống nhất về cách đọc, mỗi cá nhân còn có những nét sáng tạo và cảm thụ riêng. Do vậy, cách tốt nhất là GV tổ chức cho HS luyện đọc, “tự bộc lộ” (trên cơ sở đọc mẫu của GV và kết quả của việc tìm hiểu bài), qua đó chỉ dẫn, điều chỉnh về cách đọc sao cho diễn cảm; tránh sa đà tìm hiểu, phân tích quá sâu và chi tiết về cách đọc (xác định chỗ ngắt hơi, cao giọng, thấp giọng, ...), coi nhẹ thực hành luyện đọc và hoạt động đọc tự nhiên. Dạy đọc diễn cảm thiên về “lí thuyết”, không bắt nguồn từ sự hiểu biết sâu sắc và xúc cảm về bài đọc nhiều khi còn phản tác dụng, làm cho trẻ vì quá tập trung chú ý đến những dấu ngắt hơi, nhấn giọng đã xác định mà đọc rất gượng gạo, mất tự nhiên. 4.2. Biện pháp: 4.2.1. Sau khi HS đã hiểu bài đọc, tôi yêu cầu HS lần lượt đọc thật tốt từng đoạn để nắm bắt khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng đọc của HS, nên tôi không bao giờ áp đặt sẵn giọng đọc của bài mà để HS tự nêu cách đọc. VD: Dạy bài Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân Tiếng Việt tập 2 trang 83 Sau khi đã hiểu nội dung bài, tôi cho 4 HS đọc nối tiếp 4 đoạn, cả lớp chú ý nghe nhận xét : Giọng đọc của bạn nào đã phù hợp với nội dung bài ? (Hoặc cụ thể hơn Đoạn văn vừa rồi được đọc với giọng như thế nào?). - HS nêu để tìm đúng giọng đọc toàn bài: Giọng kể. - Đoạn lấy lửa chuẩn bị nấu cơm: Giọng dồn dập, náo nức. - Đoạn nấu cơm: Giọng khoan thai, thể hiện không khí vui tươi, náo nhiệt của hội thi. - Đoạn cuối : Giọng tự hào về một nét đẹp cổ truyền trong sinh hoạt văn hoá của dân tộc. 4.2.2. Sau khi HS tìm đúng giọng đọc của bài, của đoạn, tôi yêu cầu tìm từ ngữ cần nhấn giọng. Các câu hỏi gợi mở cần cụ thể như: Để nêu bật tính cách của nhân vật, bạn đã chú ý nhấn giọng ở những từ ngữ nào? Lời nói của nhân vật cần đọc với giọng ra sao? Đọc các câu cảm, câu khiến, câu hỏi cần lưu ý gì ?, các dòng thơ nào cần đọc vắt để rõ ý của bài ?, VD1 : Dạy văn xuôi: Bài Cái gì quý nhất (Tiếng Việt tập 1 trang 85) Sau khi HS tìm giọng đọc của bài (giọng kể chuyện), phân biệt lời của các nhân vật (Giọng Hùng, Quý, Nam: sôi nổi, hào hứng; giọng thầy giáo: ôn tồn,chân tình ), câu hỏi đọc cao giọng ở ý cần hỏi. Đọc diễn cảm bài được thể hiện bằng các kí hiệu như sau: Một hôm, trên đường đi học về, Hùng, Quý và Nam trao đổi với nhau xem ở trên đời này, cái gì quý nhất. Hùng nói : “Theo tớ, quý nhất là lúa gạo. Các cậu có thấy ai không ăn mà sống được không ?” Quý và Nam cho là có lí. Nhưng đi được mươi bước, Quý vội reo lên : “Bạn Hùng nói không đúng. Quý nhất phải là vàng.Mọi người chẳng thường nói / quý như vàng là gì ? Có vàng là có tiền, có tiền sẽ mua được lúa gạo !” Nam vội tiếp ngay : “Quý nhất là thì giờ. Thầy giáo thường nói / thì giờ quý hơn vàng bạc. Có thì giờ mới làm ra được lúa gạo, vàng bạc !” Cuộc tranh luận thật sôi nổi, người nào cũng có lí, không ai chịu ai. Hôm sau, ba bạn đến nhờ thầy giáo phân giải. Nghe xong, thầy mỉm cười rồi nói : - Lúa gạo quý / vì ta phải đổ bao mồ hôi mới làm ra được. Vàng cũng quý / vì nó rất đắt và hiếm. Còn thì giờ đã qua đi / thì không lấy lại được, đáng quý lắm. Nhưng / lúa gạo, vàng bạc, thì giờ vẫn chưa phải quý nhất. Ai làm ra lúa gạo, vàng bạc, ai biết dùng thì giờ ? //Đó chính là người lao động, các em ạ. Không có người lao động / thì không có lúa gạo, không có vàng bạc, nghĩa là tất cả mọi thứ đều không có, và thì giờ cũng trôi qua một cách vô vị mà thôi. VD2 : Dạy văn xuôi: Bài Tiếng rao đêm (Tiếng Việt tập 2 trang 30) Gần như đêm nào tôi cũng nghe thấy tiếng rao ấy:“Bánhgiòòò!” Tiếng rao đều đều, khàn khàn kéo dài trong đêm khuya tĩnh mịch, nghe buồn não ruột. Rồi một đêm, vừa thiếp đi, tôi bỗng giật mình vì những tiếng la: “ Cháy! Cháy nhà !” Rồi từ trong nhà, vẫn cái bóng cao, gầy, khập khiễng ấy / lom khom như đang che chở vật gì, phóng thẳng ra đường. Qua khỏi thềm nhà, người đó vừa té quỵ thì một cây rầm sập xuống. Mọi người xô đến. Ai nấy bàng hoàng / vì trong cái bọc chăn vương khói mà người ấy đang ôm khư khư là một đứa bé mặt mày đen nhẻm, th
File đính kèm:
- SANG_KIEN_KN_CHIEN.doc