Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu

1. Cơ sở lý luận:

1.1. Vị trí, vai trò của phân môn Luyện từ và câu

Phân môn Luyện từ và câu là một môn học giữ vị trí chủ đạo trong chương trình Tiếng Việt của lớp 2. Ngay từ đầu của hoạt động học tập ở trường, học sinh đã được làm quen với lí thuyết của từ và câu. Sau đó, kiến thức được mở rộng thêm và nâng cao dần để phục vụ cho nhu cầu ngày một tăng trong cuộc sống của các em cũng như trong lao động, học tập và giao tiếp.

Vai trò quan trọng đặc biệt trong hệ thống ngôn ngữ, là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Chính vì vậy, dạy Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng, không có một vốn từ đầy đủ thì không thể nắm được ngôn ngữ như một phương pháp giao tiếp. Việc dạy từ và câu ở giai đoạn đầu giúp học sinh nắm được tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện học tập và phát triển toàn diện. Khả năng giáo dục nhiều mặt của Luyện từ và câu là rất to lớn. Nó có nhiều khả năng để phát triển ngôn ngữ, tư duy lôgic và các năng lực trí tuệ như trừu tượng hóa, khái quát hóa, phân tích tổng hợp và các phẩm chất đạo đức như tính cẩn thận, cần cù. Ngoài ra, phân môn Luyện từ và câu còn có vai trò hướng dẫn và rèn cho học sinh có kĩ năng nói, đọc, viết.

Luyện từ và câu là môn học nền tảng để học sinh học các môn học khác trong tất cả các cấp học sau, cũng như trong lao động và giao tiếp trong cuộc sống, bởi nó giúp học sinh có năng lực nói đúng. Từ đó, sử dụng Tiếng Việt văn hóa một cách thành thạo làm công cụ tư duy để học tập giao tiếp và lao động.

 

doc21 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 591 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hân tôi luôn cố gắng để tìm ra những biện pháp nhằm giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu để nâng cao chất lượng học tập của học sinh lớp mình.
	3.2 Nguyên nhân
	3.2.1 Đối với giáo viên:
	- Các hình thức tổ chức hoạt động học tập trong giờ học Luyện từ và câu còn đơn điệu. Một số giáo viên tổ chức dạy theo vở bài tập từ đầu đến cuối. Tức là hướng dẫn học sinh lần lượt làm bài tập ở vở theo trình tự và hình thức như nhau. ( chủ yếu là làm việc cá nhân )
	- Kết hợp vận dụng một số phương pháp dạy – học chưa linh hoạt, hiệu quả chưa cao, phân bổ thời gian chưa hợp lí cho từng hoạt động trong mỗi tiết dạy.
	- Việc nắm nghĩa và giảng từ đôi khi còn lúng túng, chưa rõ ràng nên việc mở rộng vốn từ còn nhiều hạng chế.
	- Giáo viên đôi khi còn lúng túng trong việc giúp học sinh xác định yêu cầu đề bài, còn ngại tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm, theo cặp làm mất thời gian.
	- Đối với dạy Luyện từ và câu nhiều giáo viên chưa tạo cho học sinh sự chủ động tích cực trong việc huy động các kiến thức và kinh nghiệm sử dụng tiếng mẹ đẻ vào việc chiếm lĩnh kiến thức mới của bài học khiến giờ học trở nên nặng nề.
	Sở dĩ có tình trạng trên là do bản thân cũng như một vài giáo viên chưa thấy hết ý nghĩa, tầm quan trọng của giờ học Luyện từ và câu.
	3.2.2 Về phía học sinh:
	Các em học sinh lớp 2 đa số có vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt còn rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết câu còn cụt lủn hoặc câu có thể có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng về nghĩa còn chưa rõ ràng. Việc trình bày, diễn đạt ý của các em có mức độ rất sơ lượt. Mặt khác, do thực tế học sinh mới được làm quen với phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2 nên học sinh còn nhiều bỡ ngỡ, chưa có phương pháp học tập bộ môn một cách khoa học và hợp lý.
	- Vốn từ của học sinh còn hạn chế dẫn đến việc dùng từ còn sai nhiều, đặc biệt là học sinh người dân tộc. 
	- Trong suốt thời gian các em ít chịu khó ôn tập lại các kiến thức đã học. 
	- Do nhận thức của các em chủ yếu là cảm tính nên sự vận dụng vốn sống vào trong bài tập còn thiếu chính xác. Bên cạnh đó khả năng xác định từ, câu của học sinh còn kém, các em còn nhầm lẫn giữa dấu chấm và dấu chấm hỏi.
- Từ việc làm bài tập của học sinh ta dễ dàng thấy được khả năng tư duy và sáng tạo của học sinh là chưa cao, với bài tập đòi hỏi sự tư duy và sáng tạo thì kết quả làm bài tập của các em còn hạn chế.
4. Các giải pháp thực hiện:
	4.1. Giới thiệu bài :
	Để có thể học tốt phân môn Luyện từ và câu, ngay từ đầu tiết học người giáo viên phải khơi sự tò mò, hứng thú học cho các em bằng chính lời giới thiệu của mình. 
	Khi giới thiệu bài Luyện từ và câu ở tuần 3:“ Từ chỉ sự vật. Kiểu câu: Ai là gì ?”. Đây chính là bài học với chủ đề: Bạn bè. Giáo viên có thể hỏi: Trong tuần các em đã học những bài tập đọc nào nói về bạn bè ? Sau khi học sinh trả lời, giáo viên sẽ giới thiệu : Các em đã được học những bài tập đọc nói về tình bạn. Các em có biết từ chỉ sự vật là gì không ? và muốn nói với kiểu câu Ai là gì ? em sẽ nói như thế nào. Hôm nay cô sẽ cùng các em tìm hiểu về từ chỉ sự vật và kiểu câu: Ai là gì?
	Hoặc tôi có thể dùng tranh ảnh để giới thiệu bài gây hứng thú, tạo nhu cầu học bài ở học sinh.
	Ví dụ: Khi dạy bài ở tuần 26: “ Từ ngữ về sông biển. Dấu phẩy ” Tôi đã sưu tầm một số tranh ảnh về các loài cá nước ngọt và nước mặn. Sau đó giới thiệu cho học sinh biết đây là các loài cá nhưng để biết đâu là cá nước ngọt ? Đâu là cá nước mặn ? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua bài học hôm nay.
4.2 Giáo viên cần phân ra các kiểu bài trong phân môn Luyện từ và câu:
	a. Dạy bài lý thuyết về từ.
	Ở lớp 2, có những bài dạy về lý thuyết từ như: Từ và câu, từ ngữ chỉ sự 
Vật ( Danh từ ), Từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái ( Động từ ), Từ ngữ chỉ đặc điểm tình cảm (Tính từ ) Những bài học này là tổng kết những kiến thức được rút ra từ những bài tập học sinh được làm. 
	Dạy nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự phản ánh đối tượng của hiện thực trong nhận thức được ghi lại bằng tổ hợp âm thanh xác định để làm tăng vốn từ cho học sinh, giáo viên cần phải cung cấp những từ mới bằng những tranh ảnh, hoạt động hay lời nói mà giáo viên đưa ra. Công việc đầu tiên của dạy từ là phải làm cho học sinh hiểu nghĩa của từ, hiểu được tầm quan trọng của việc dạy nghĩa của từ và nó còn là nhiệm vụ sống còn trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em.
	Muốn thực hiện được điều này người giáo viên phải hiểu nghĩa của từ, phải biết giải nghĩa phù hợp với mục đích dạy, phù hợp với đối tượng học sinh. Giải nghĩa bằng trực quan là biện pháp giáo viên đưa vật thật, tranh ảnh, Giải nghĩa từ bằng trực quan chiếm vị trí quan trọng trong giải nghĩa từ ở Tiểu học vì nó góp phần giúp học sinh hiểu nghĩa của từ một cách dễ dàng nhưng cách giải nghĩa này đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị khá công phu. Ví dụ : Bài “ Từ chỉ sự vật ” ( tuần 3 ) giáo viên giải nghĩa cho học sinh các từ chỉ sự vật như : bộ đội, công nhân, cây dừa, cây mía thông qua tranh và lời nói của giáo viên.
	Ngoài ra, giáo viên còn giải nghĩa bằng ngữ cảnh, đó là đưa từ vào trong một nhóm từ, một câu, một bài để làm rõ nghĩa của từ trong ngữ cảnh. Giáo viên không cần giải thích mà nghĩa của từ tự bộc lộ trong ngữ cảnh.
Ví dụ: Bài “ Từ và câu ” ( tuần 1). Giải thích từ “ nhà ”, giáo viên có thể đưa từ nhà vào trong câu: Nơi em ở là ngôi nhà hai tầng.
	b. Dạy bài mở rộng vốn từ
	Cơ sở của việc hệ thống hóa vốn từ là sự tồn tại của từ trong ý thức con người, từ tồn tại trong đầu óc con người không phải là những yếu tố rời rạc mà là một hệ thống. Chúng được sắp xếp theo một hệ thống liên tưởng nhất định giữa các từ này với từ khác có một nét gì chung khiến ta nhớ đến từ kia nên từ được tích lũy nhanh chóng hơn. Từ mới có thể được sử dụng trong lời nói và khi sử dụng nhờ hệ thống liên tưởng, học sinh nhanh chóng huy động lựa chọn từ phù hợp với yêu cầu giao tiếp.
	Với mục đích tích lũy nhanh chóng vốn từ và tạo điều kiện để sử dụng từ một cách dễ dàng, giáo viên đưa ra những từ theo một hệ thống và đồng thời xây dựng một bài học hệ thống hóa vốn từ trong dạy từ. Ở lớp 2, các em được học từ theo chủ đề, cứ hai tuần các em học một chủ đề.
	Ví dụ: Tuần 21 và 22 các em học chủ đề “ chim chóc ” thì ở Luyện từ và câu các em được học từ ngữ về chim chóc và mở rộng vốn từ các từ ngữ về loài chim.
	Khi học sinh chưa nắm chắc từ thì giáo viên cần gợi ý từ và giúp học sinh hiểu được nghĩa của từ và nắm chắc hệ thống từ một cách thành thạo, biết dùng từ để đặt câu. Giáo viên cần định hướng những từ nhất định cần thu hẹp phạm vi liên tưởng lại.
	Ví dụ: Khi dạy bài “ Từ ngữ về các môn học” ( tuần 7 )
	Giáo viên đưa ra những câu hỏi gợi từ để giúp học sinh nắm được hệ thống của từ trong chủ đề “ Thầy cô ” như : 
	- Trong thời khóa biểu, những môn học nào em được học nhiều nhất ?
( môn Toán và Tiếng Việt )
- Ngoài ra em còn học những môn học nào khác nữa ? ( Tự nhiên - 
 Xã hội, Đạo đức, Nghệ thuật, )
- Trong môn Tiếng Việt em học gồm có những phân môn nào ? ( Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Kể chuyện, Tập làm văn)
- Trong môn nghệ thuật em thấy có những phân môn nào ? ( Thủ công, Âm nhạc, Mĩ thuật )
- Sau đó giáo viên dùng những tấm bìa khác màu để phân biệt các môn học. Giải các bài tập hệ thống hóa vốn từ, học sinh sẽ xây dựng được những nhóm từ khác nhau. Để hướng dẫn học sinh làm những bài tập này giáo viên cần có những vốn từ cần thiết và phân biệt được các loại từ.
Ví dụ: Chọn từ ngữ thích hợp rồi điền vào chỗ trống để tạo thành một câu hoàn chỉnh:
a/ Cháu  ông bà.
b/ Con . cha mẹ.
c/ Em .. anh chị
- Giáo viên phải xác định cho học sinh ở bài tập này phải điền những từ ngữ nói về tình cảm mà các em đã được học.
- Sau đó học sinh có thể điền nhiều từ có nghĩa tương tự nhau như câu a. Cháu . Ông bà ( học sinh có thể điền: kính yêu, kính trọng, thương yêu)
c. Dạy bài tích cực hóa vốn từ
Dạng bài tập này không chỉ giúp học sinh nắm được nghĩa mà còn làm rõ khả năng kết hợp từ. Những bài tập được sử dụng ở lớp 2 là bài tập điền từ, bài tập đặt câu, bài tập tạo từ 
Ví dụ: Bài: “ Từ ngữ về tình cảm ” ( tuần 12 )
Dùng mũi tên ( ) nối các tiếng sau thành những từ có hai tiếng rồi ghi các từ tìm được vào dòng dưới.
yêu
thương
 Quý
 mến
 kính 
- Giáo viên hướng dẫn học sinh bằng cách: Hướng dẫn các em tạo các từ theo từng tiếng dưới dạng sơ đồ cây. Như tiếng “ yêu” ta có từ : yêu thương, yêu quý, yêu mến tương tự như vậy học sinh sẽ tạo các từ tiếp theo.
	Với các dạng bài tập này giáo viên cần cho học sinh phân tích đề bài một cách rõ ràng. Khi cần giáo viên có thể giải thích để các em nắm được yêu cầu của bài tập này. Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập, giáo viên phải nắm chắc trình tự giảng bài, cần có những dự tính cho những tình huống và những lỗi học sinh mắc phải khi giải bài tập để sửa chữa kip thời.
	Ví dụ: Khi dạy bài: “ Từ ngữ về muôn thú” ( tuần 23) 
	- Sau khi dạy xong bài, phần củng cố giáo viên yêu cầu học sinh các nhóm tìm tên các con thú nguy hiểm và thú không nguy hiểm thì lúc đó có học sinh nêu: con rắn
	- Khi đó, giáo viên phải giải thích cho học sinh hiểu rắn không phải là loài thú mà là loài bò sát nên kể tên rắn vào đây là sai.
	Cuối cùng giáo viên phải kiểm tra, đánh giá nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh. Muốn cho học sinh một mẫu sản phẩm tốt nhất thì người giáo viên phải chuẩn bị mẫu lời giải đúng và dùng nó đối chiếu với bài tập của học sinh. Với những bài tập sai giáo viên không nhận xét chung mà chỉ rõ bài học sinh sai ở đâu và chuyển từ lời giải sai sang lời giải đúng.
	d. Dạy bài khái niệm câu
	Quá trình hình thành khái niệm câu có thể chỉ ra theo các bước sau:
	Đưa ngữ liệu và phân tích ngữ liệu với mục đích làm rõ những dấu hiệu bản chất của khái niệm.
	Khái quát hóa dấu hiệu thiết lập quan hệ giữa các dấu hiệu của khái niệm đưa thuật ngữ ( học sinh nắm thao tác so sánh và tổng hợp )
	Để chuẩn bị dạy khái niệm câu giáo viên cần đặt trong hệ thống chương trình để thấy rõ vị trí của nó đồng thời phải nắm chắc nội dung khái niệm. Đây chính là nội dung mà giáo viên cần đưa đến cho học sinh.
	Do tính chất thực hành cũng như để phù hợp với đối tượng học sinh nhỏ tuổi nên mỗi giáo viên khi dạy cần tự lập một bảng ghi rõ thứ tự các khái niệm câu được dạy để thấy được cái nhìn tổng quát và chính xác.
	Như vậy, để thực hiện giảng dạy phần khái niệm câu trong một bài, giáo viên cần linh hoạt sử dụng kết hợp các phương pháp như: trực quan, hỏi đáp, để phân tích, so sánh và giảng giải để rút ra kiến thức của bài học.
	Mục đích cuối cùng của việc dạy khái niệm câu trong nhà trường là sử dụng chúng một cách có ý thức để thực hiện chính xác tư tưởng, tình cảm trong hình thức nói và viết. Vì vậy, thực hành câu nhất thiết phải được dạy một cách có định hướng, có kế hoạch thông qua hệ thống bài tập câu. 
Các bài tập nhận diện, phân tích trong quá trình hướng dẫn học sinh làm bài tập giáo viên cần đặt ra những câu hỏi thích hợp đối với những thành phần học sinh nhận diện ra chúng. Những bài tập xây dựng tổng hợp chủ yếu nằm ở cấp độ câu, nó được xây dựng thành nhóm:
	Nhóm các bài tập theo mẫu gồm: 
	- Bài tập viết theo mẫu làm rõ ý nghĩa của câu
	- Trả lời câu theo mẫu có sẵn
	Nhóm các bài tập này, giáo viên đưa ra các ví dụ và làm mẫu. Ở đây ví dụ phải là mẫu đích thực và câu hỏi cần dần dần tăng độ khó.
 Ví dụ: Khi dạy câu kiểu: Ai / là gì ? Trước khi vào bài dạy giáo viên cần phân tích mẫu, cho học sinh lấy ví dụ theo kiểu Ai / là gì ? sau đó mới đi vào thực hành nói và viết theo câu kiểu Ai / là gì ?
Câu kiểu Ai / là gì ? tức là giới thiệu về người, vật nào đó.
Ví dụ: - Linh / là học sinh lớp 2A2. ( Ai / là gì ? )
 Ai là gì
	 - Điện thoại / là phương tiện thông tin nhanh nhất. (Cái gì / là gì ? )
 Cái gì là gì
	 - Cò và Vạc / là đôi bạn thân. ( con gì / là gì ? )
 Con gì là gì
Sau đó giáo viên cho học sinh thực hành với bài tập sau:
Bài tập 1: Đặt câu theo mẫu dưới đây rồi ghi vào chỗ trống
Ai ( hoặc cái gì, con gì )
Là gì ?
Mẫu: Lý Xuân Kim
Là học sinh lớp 2A2
Bài tập 2: Ghi từ ngữ thích hợp vào chỗ trống để tạo thành câu
Ai ( hoặc cái gì, con gì )
Là gì ?
Em
.
Là đồ dùng học tập thân thiết của em.
	Các nhóm bài tập sáng tạo gồm các dạng bài như: Bài tập biến dạng các kiểu câu, bài tập xác định dấu câu và tự viết hoa, bài tập xây dựng câu theo cấu trúc đã cho, bài tập cho trước đề bài yêu cầu đặt câu, bài tập dựa vào tranh để đặt câu, cho từ yêu cầu đặt câu  Với nhóm bài tập này giáo viên cần đưa tranh để phân tích chủ đề và làm mẫu  Hướng dẫn học sinh làm bài và bổ sung thêm để có những câu văn hay đủ độ lớn, có cấu trúc câu đầy đủ và có sức biểu hiện đồng thời dùng phương pháp trò chơi để kích thích sáng tạo, thi đua học tập của học sinh. 
Giáo viên cần phải có nội dung rõ ràng vể số lượng bài tập nhiều tiết không thể sử dụng hết bài tập trong sách học sinh mà phải lựa chọn hoặc làm phiếu bài tập để giảm bớt thời gian làm bài tập, tích cực hóa hoạt động của học sinh.
Khâu tổ chức làm bài tập giáo viên phải nắm được trình tự làm bài tập và dự tính được những câu trả lời của học sinh và những sai phạm mà các em có thể mắc phải để chuẩn bị sẵn phương án sửa chữa khi học sinh không giải được bài tập thì giáo viên phải cắt nhỏ từng bước để sửa sai cho học sinh.
Phải dùng thời gian đúng mức cho khâu kiểm tra, đánh giá. Có thể cho học sinh kiểm tra, đánh giá lẫn nhau nhưng cần có mẫu lời giải đúng để học sinh tự đối chiếu, đánh giá bài làm của mình.
4.3 Đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học
- Việc dạy học đối với mỗi bài học là trách nhiệm của mỗi giáo viên, vì vậy chính giáo viên là người quyết định cho việc lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp cho từng bài học, sao cho tương tác giữa giáo viên và học trò trong quá trình lĩnh hội tri thức của trò đạt hiệu quả cao nhất. Kinh nghiệm cho thấy, trong một bài giảng thành công không bao giờ chỉ dùng một phương pháp mà phải phối hợp nhiều phương pháp, cả phương pháp hiện đại và phương pháp truyền thống một cách hợp lý. Mỗi giáo viên phải nắm chắc các phương pháp đặc trưng dạy phân môn Luyện từ và câu. Lựa chọn phương pháp thích hợp để bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau.
Ví dụ : Luyện từ và câu
	Bài : MRVT : Từ ngữ về sông biển
	Đặt và trả lời câu hỏi : Vì sao ?
Dạy học bài mới :
	Bài 1 : Tìm các từ ngữ có tiếng biển :
	M : tàu biển, biển cả
- GV tổ chức cho học sinh chơi trò chơi tiếp sức ( chia lớp làm 2 đội, mỗi đội gồm 4 em, chơi trong 4 phút ).
	Đội A : Tìm từ có tiếng biển đứng sau.
	Đội B : Tìm từ có tiếng biển đứng trước
	Đội A Đội B
	.biển biển..
- Giáo viên tổng kết trò chơi .
- Học sinh dưới lớp bổ sung thêm 1 số từ khác ( nếu có )
Kết quả :
- Tàu biển, sóng biển, nước biển, cá biển, tôm biển, cua biển, rong biển,
- Biển cả, biển khơi, biển xanh, biển lớn,
	Bài 2: Tìm từ ngữ trong ngoặc đơn hợp với mỗi nghĩa sau: ( suối, sông, hồ )
a) Dòng nước chảy tương đối lớn, trên đó thuyền bè đi lại được.
b)Dòng nước chảy tự nhiên ở đồi núi.
c) Nơi đất trũng chứa nước, tương đối rộng và sâu, ở trong đất liền.
1 HS đọc yêu cầu.
HS điền kết quả trên phiếu bài tập. ( 3 phút )
GV thu chấm và nhận xét.
GV giới thiệu thêm một số tranh về sông, suối, hồ.
Kết quả :
a) Sông
b) Suối
c) Hồ
Bài 3: Đặt câu hỏi cho phần in đậm trong câu sau :
Không được bơi ở đoạn sông này vì có nước xoáy.
1 HS đọc yêu cầu.
GV hướng dẫn cách đặt câu hỏi.
HS làm bài theo nhóm ( 4 – 6 em ) trong vòng 4 phút.
Đại diện nhóm trình bày.
GV nhận xét, chốt câu đúng và ghi bảng.
HS đọc lại câu đúng.
Kết quả :
	Vì sao không được bơi ở đoạn sông này ?
Bài 4 : Dựa theo cách giải thích trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh trả lời các câu hỏi sau :
Vì sao Sơn Tinh lấy được Mị Nương ?
Vì sao Thủy Tinh dâng nước đánh Sơn Tinh ?
Vì sao ở nước ta có nạn lụt ?
1 HS đọc yêu cầu.
HS thảo luận theo nhóm cặp đôi ( trong vòng 4 phút ).
Một số nhóm trình bày theo hình thức đố bạn.
Các nhóm khác nhận xét và bổ sung thêm.
Kết quả : 
a) Sơn Tinh lấy được Mị Nương vì đem lễ vật đến trước.
b) Thủy Tinh dâng nước đánh Sơn Tinh vì muốn cướp lại Mị Nương .
c) Ở nước ta có nạn lụt vì năm nào Thủy Tinh cũng dâng nước lên để 
đánh Sơn Tinh .
Nói chung trong quy trình một tiết dạy chúng ta cần thay đổi các hình thức tổ chức dạy học, cả phương tiện học tập và cả cách trình bày kết quả để tránh sự rập khuôn, cứng nhắc. Cả tiết học lúc nào cũng vùi đầu vào làm bài tập hoặc hoạt động nào cũng chỉ tổ chức dưới một vài hình thức đơn điệu sẽ không thu hút được sự chú ý và sự hứng thú của học sinh.
Giáo viên nên thay đổi hình thức tổ chức hình thức dạy học phù hợp với nội dung để học sinh không nhàm chán thụ động. Một số hình thức tôi thường sử dụng trong tiết Luyện từ và câu là :
a. Dạy học cá nhân :
- Đối với những bài tập đề yêu cầu rất cụ thể, dễ hiểu thì chúng ta nên tổ 
chức cho học sinh làm việc độc lập.
	Ví dụ 1 : LTVC ( tuần 16 ) 
	Bài : Từ chỉ tính chất. Câu kiểu Ai thế nào ?
	MRVT : Từ ngữ về vật nuôi
Bài 1 : Tìm từ trái nghĩa với mỗi từ sau : tốt, ngoan, nhanh, trắng, cao, khỏe.
Đối với bài này giáo viên nên cho học sinh làm việc độc lập ( trả lời miệng )
	- Đối với những dạng bài tập điền vào chỗ trống, điền dấu câu thích hợp, luyện viết hoa tên riêng; viết một câu về nội dung nào đó, tôi thường cho hs làm việc cá nhân vào vở bài tập hoặc phiếu bài tập trước sau đó, tôi thường cho học sinh làm việc cá nhân vào vở bài tập hoặc phiếu bài tập trước sau đó trình bày miệng trước lớp.
Ví dụ 2 : LTVC : ( tuần 7 )
	Bài : MRVT : Từ ngữ về các môn học. Từ chỉ hoạt động.
Bài 4 : Chọn từ chỉ hoạt động thích hợp với mỗi chỗ trống sau :
Cô Tuyết Mai.môn Tiếng Việt.
Cô..bài rất dễ hiểu.
Cô..chúng em chăm học.
- HS làm vào vở bài tập.
Ví dụ 3 : LTVC ( tuần 12 )
	Bài : MRVT : Từ ngữ về tình cảm. Dấu phẩy
Bài 2 : Em chọn từ ngữ nào điền vào chỗ trống để tạo thành câu hoàn chỉnh ?
Cháu.ông bà.
Concha mẹ.
Em.anh chị.
- HS làm vào vở bài tập
Ví dụ 1 : LTVC : ( tuần 2 )
	Bài : Tên riêng và cách viết tên riêng. Kiểu câu Ai là gì ?
Bài 3 : Đặt câu theo mẫu :
Giới thiệu về trường em.
Giới thiệu một môn học em yêu thích.
Giới thiệu làng ( xóm, bản, ấp, buôn, sóc, phố ) của em.
Đối với những bài tập ở dạng trên tôi tổ chức cho học sinh làm miệng để đỡ mất thời gian mà lớp học sôi nổi, đồng thời rèn luyện kĩ năng nghe, đánh giá nhận xét bài làm của bạn .
Dạy học theo nhóm :
Dạy học nhóm là hình thức xã hội của dạy học, trong đó học sinh của một 
lớp học được chia thành các nhóm nhỏ trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp.
	Số lượng học sinh trong nhóm thường khoảng 4-6 học sinh. Nhiệm vụ của các nhóm có thể giống nhau hoặc mỗi nhóm nhận nhiệm vụ khác nhau, là các phần trong chủ đề chung. Trao đổi thảo luận, thực hiện một bài tập, một nhiệm vụ học tập.
Ví dụ 1 : LTVC ( tuần 10 )
	Bài : MRVT : Từ ngữ về họ hàng. Dấu chấm, dấu chấm hỏi
Bài 2 : Kể thêm các từ chỉ người trong gia đình họ hàng mà em biết.
HS thảo luận theo nhóm bàn.
Đại diện nhóm trình bày.
Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
Ví dụ 2 : LTVC ( tuần 11 )
	Bài : MRVT : từ ngữ về đồ dùng và công việc trong nhà.
Bài 1 : Tìm các đồ vật được vẽ ẩn trong bức tranh sau và cho biết mỗi vật dùng để làm gì .
Đối với 2 bài tập trên, giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “ Tìm kẻ trú ẩn”
- Giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm ( mỗi nhóm 5 em ), chơi trong 5
phút
- Giáo viên phát cho mỗi nhóm tranh phóng to trong bài tập và giấy A3 để 
ghi kết quả.
- Sau khi thảo luận xong các nhóm dán kết quả lên bảng.
 Giáo viên cùng cả lớp nhận xét kết quả cho từng nhóm.
c. Dạy học theo lớp:
	Học sinh thông hiểu, ghi nhớ và tái hiện lại bài học.
	Áp dụng làm bài tập trong mọi tiết học.
	Để tổ chức thực hiện các bài tập Luyện từ và câu, giáo viên phải nắm được mục đích, biết trình tự cần tiến hành giải bài tập để hướng dẫn cho học sinh. Trong giáo án phải ghi rõ mục đích bài tập, lời giải mẫu, những sai phạm dự tính học sinh có thể mắc phải và cách đều chỉnh đưa về cách giải đúng. Tuần tự công v

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot.doc
Giáo án liên quan