Sáng kiến kinh nghiệm môn Thể dục 4

- Việc giảng dạy bộ môn thể dục ở các trường tiểu học trong huyện những năm trước và gần đây chủ yếu là giáo viên giảng dạy kiêm nhiệm. Do đó kĩ năng động tác mẫu còn rất nhiều hạn chế, phương pháp dạy có nhiều điểm không phù hợp với đặc thù của bộ môn. Từ đó việc hình thành kĩ năng động tác của học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn và thiếu sự chính xác.

- Thực tế học sinh : Còn rất nhiều em chưa hiểu biết về nghĩa, tác dụng của luyện tập đối với sự phát triển cơ thể của người tập. Do đó việc luyện tập mới chỉ dừng lại ở mức độ qua loa để hoàn thành. Kĩ năng động tác còn yếu, thiếu sự luyện tập thường xuyên và liên tục mà đây là một nguyên tắc quan trọng của luyện tập thể dục thể thao.

 

doc13 trang | Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 703 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm môn Thể dục 4, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. PHẦN CHUNG :
1. Lý do chọn đề tài :
1.1/ Cơ sở pháp chế :
- Dựa trên cơ sở mục tiêu giảng dạy môn thể dục tiểu học, căn cứ vào mục tiêu chung của giáo dục học sinh trong trường học.
- Để dạt được mục tiêu đó. Mỗi môn học là một bộ phận không thể thiếu. trong đó môn học thể dục là một môn học giúp học sinh nhận biết và nắm được một số kiến thức, kĩ năng để rèn luyện, gìn giữ, bảo vệ và nâng cao sức khỏe, có thể chất tốt góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, thói quen tự giác luyện tập thể dục thể thao. Qua đó tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, cân đối về thể và chất.
- Căn cứ vào nhiệm vụ giảng dạy bộ môn của cá nhân trong những năm học trước.
- Căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu, đặc điểm cơ bản của môn học và phương pháp giảng dạy môn học thể dục của các lớp ở bậc tiểu học nói chung và môn học thể dục lớp 4 nói riêng.
1.2/ Cơ sở lý luận :
- Việc nâng cao chất lượng dạy và học môn thể dục ở cấp tiểu học là một vấn đề quan trọng. Vì đây là nền tảng giúp các em nắm được một số kiến thức, kĩ năng để tiếp tục bước vào bậc học cao hơn.
- Việc luyện tập ở đây với mục tiêu chính nhằm giúp học sinh củng cố các kĩ năng đã có ở lớp dưới, có kĩ năng kiến thức nhất định làm cơ sở cho học tập bộ môn, phát triển các tố chất thể lực phục vụ cho học tập môn học ở cấp trung học cơ sở.
- Mặt khác việc học tập tốt phần “Đội hình đội ngũ” thể dục lớp 4 sẽ là cơ sở cho việc học tập tốt bộ môn thể dục ở cấp học và vận dụng thực tiễn vào các hoạt động ngoài giờ một cách nhanh nhẹn, có nề nếp và đạt hiệu quả cao.
1.3/ Cơ sở thực tiễn :
- Căn cứ vào thực tế giảng dạy của bản thân và việc luyện tập của học sinh. Trong giảng dạy thực tiễn lớp 4 tôi nhận thấy : Việc nắm bắt kĩ thuật, hình thành kĩ năng động tác của học sinh còn rất yếu nhất là các kĩ năng đội hình đội ngũ. Mà đây là một nội dung rất quan trọng và thiết thực. Nội dung này các em đã được học tập và vận dụng từ các lớp dưới. Điều này có nhiều nguyên nhân. Trong đó vấn đề giảng dạy của giáo viên là chủ yếu. Bên cạnh đó lí do nhận thức của học sinh và thời gian dành cho việc tự tập, tự rèn luyện của học sinh còn ít.
Qua đó tôi đã nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp thực hiện vấn đề này.
- Việc giảng dạy bộ môn thể dục ở các trường tiểu học trong huyện những năm trước và gần đây chủ yếu là giáo viên giảng dạy kiêm nhiệm. Do đó kĩ năng động tác mẫu còn rất nhiều hạn chế, phương pháp dạy có nhiều điểm không phù hợp với đặc thù của bộ môn. Từ đó việc hình thành kĩ năng động tác của học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn và thiếu sự chính xác.
- Thực tế học sinh : Còn rất nhiều em chưa hiểu biết về nghĩa, tác dụng của luyện tập đối với sự phát triển cơ thể của người tập. Do đó việc luyện tập mới chỉ dừng lại ở mức độ qua loa để hoàn thành. Kĩ năng động tác còn yếu, thiếu sự luyện tập thường xuyên và liên tục mà đây là một nguyên tắc quan trọng của luyện tập thể dục thể thao.
- Trong thực tiễn hoạt động, phần đội hình đội ngũ được vận dụng rất nhiều trong các hoạt động mang tính tập thể trong và ngoài nhà trường.
2. Nhiệm vụ của đề tài :
- Thông qua kinh nghiệm giảng dạy của bản thân.
- Nghiên cứu một số thực tiễn việc dạy và học ở một số cơ sở.
- Qua quá trình nghiên cứu và đã đưa vào thực tế giảng dạy phần học : “Đội hình đội ngũ” trong chương trình thể dục lớp 4. Với mong muốn thu được kết quả cao trong công tác giảng dạy bộ môn.
Góp phần giáo dục cho học sinh có được một số kỹ năng cơ bản và biết vận dụng vào thực tiễn luyện tập, rèn luyện nâng cao sức khỏe phục vụ tốt cho học tập và các hoạt động khác. Tạo cho học sinh có thói quen luyện tập thường xuyên.
3. Giới hạn của đề tài :
Nghiên cứu đưa vào giảng dạy nâng cao chất lượng phần học “Đội hình đội ngũ” môn thể dục lớp 4.
4. Đối tượng nghiên cứu :
Ở đây đối tượng của tôi là học sinh lớp 4 trường Tiểu học “B” Mỹ Hội Đông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Đây là đối tượng tôi trực tiếp giảng dạy môn thể dục.
5. Phương pháp nghiên cứu :
- Thông qua kinh nghiệm giảng dạy của bản thân.
- Qua thực tế việc luyện tập và vận dụng của học sinh vào luyện tập và các hoạt động khác còn chậm, còn lúng túng ở một số loại đội hình.
- Việc nắm bắt các kĩ thuật động tác còn yếu nên gặp nhiều khó khăn trong việc hình thành kĩ năng vận động.
Chính vì lí do đó mà tôi luôn tìm tòi, nghiên cứu làm thế nào để học sinh dễ nắm bắt kĩ thuật, hình thành được một số kĩ năng động tác một cách nhanh chóng. Tạo cho các em có thói quen luyện tập thường xuyên, liên tục, nâng cao dần một cách có hệ thống khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận dụng trong các hoạt động đoàn thể khác.
- Thông qua việc khảo sát chất lượng đầu năm và kiểm tra thường xuyên.
- Nắm được ý thức, thái độ và quá trình luyện tập của từng đối tượng học sinh.
- Nắm được khả năng nhận thức, hình thành kĩ năng và vận dụng của từng em.
Từ đó có phương hướng, biện pháp giảng dạy cho từng bài, từng tiết dạy phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh.
- Trong giảng dạy phải luôn khích lệ, khơi dậy lòng ham mê luyện tập, gây hứng thú luyện tập. Qua đó giúp các em nắm được kiến thức, nhanh chóng hình thành kĩ năng động tác, nâng cao được hiệu quả luyện tập, rèn luyện được các tư thế cơ bản đúng và nâng cao được thể lực.
- Ngoài kinh nghiệm qua giảng dạy. Tôi còn tham khảo qua một số tài liệu tham khảo, sách hướng dẫn giảng dạy môn thể dục từ các lớp
6. Thời gian nghiên cứu :
Tiến hành vận dụng vào giảng dạy thực tế, trực tiếp ngay ở phần đội hình đội ngũ lớp 4 trường tiểu học “B” Mỹ Hội Đông – Chợ Mới – An Giang (2 lớp) năm học 2009 – 2010.
7. Tài liệu tham khảo :
- Sách giáo viên hướng dẫn giảng dạy môn thể dục lớp 4. Nhà xuất bản Giáo dục.
- Sách giáo viên hướng dẫn giảng dạy môn thể dục lớp 1, 2, 3, 5, 6. Nhà xuất bản Giáo dục.
- Tài liệu hướng dẫn rèn luyện nghi thức Đội. Nhà xuất bản Thanh niên.
II. Nội dung đề tài:
Thời gian và các bước tiến hành :
Kiểm tra khảo sát chất lượng phần đội hình đội ngũ vào 2 tuần (tháng 8/ 2009).
Chất lượng cụ thể : 
- Tổng số học sinh 60 học sinh.
- Đạt loại : - Hoàn thành tốt : 9 học sinh, tỷ lệ : 15%
 - Hoàn thành : 32 học sinh, tỷ lệ : 53.3%
 - Chưa hoàn thành : 19 học sinh, tỷ lệ : 31.7%
 Đạt trung bình trở lên : 68.3%.
 Áp dụng vào giảng dạy từ 31/ 8/ 2009.
2. Nội dung thực hiện :
2.1/ Về phía giáo viên :
- Nắm vững mục tiêu, yêu cầu nội dung của phần đội hình đội ngũ.
- Trong giảng dạy cho học sinh trường Tiểu học “B” Mỹ Hội Đông – Chợ Mới – An Giang tôi đã và đang sử dụng dạy học như sau :
	+ Để chuẩn bị cho việc học tập một đội hình nào đó ở giờ tới thì phần dặn dò của bài trước là một số hướng dẫn học sinh tự tìm tòi, nghiên cứu về loại đội hình đó, cách chỉ huy (Khẩu lệnh, hiệu lệnh, kĩ thuật triển khai).
Yêu cầu các em xác định được tư tưởng luyện tập, tư thế tác phong, phương hướng triển khai đội hình
	+ Qua sự tìm tòi, khám phá như trên. Đến khi vào tập phần nào các em đã có chút kiến thức về đội hình đó .
- Giới thiệu và tổ chức luyện tập tôi thường tiến hành : cử một nhóm học tập, một em chỉ huy thực hiện tập hợp, dóng hàng, dàn hànggọi một số học sinh nhận xét: 
+ Loại đội hình vừa tập hợp ?
+ Cách triển khai đội hình ?
+ Cách điều khiển của người chỉ huy ?
=> Giáo viên đưa ra ý kiến nhận xét – đánh giá chung các vấn đề trên sau đó : Tiến hành giới thiệu và kết hợp cho một nhóm học sinh thực hiện theo khẩu lệnh – hiệu lệnh của giáo viên cả về tư thế và tác phong, cách lựa chọn địa hình của người chỉ huy và động tác của người thực hiện.
* Vị trí của người chỉ huy đội hình :
- Vị trí : Phải chọn địa hình thích hợp sao cho khi tập hợp, triển khai đội hình có đủ chỗ cho toàn đội hình hướng tập hợp không bị ánh nắng soi thẳng vào mặt hoặc thẳng sau gáy.
- Tác phong của chỉ huy : Nhanh nhẹn, khẩu lệnh to, rõ ràng, dứt khoát, hiệu lệnh chính xác, tư thế nghiêm trang.
Ví dụ : 
Tập hợp triển khai đội hình hàng dọc.
	+ Sau khi quan sát sân bãi, người chỉ huy chọn vị trí đứng thích hợp. Hô : “Chú ý thành n hàng dọc tập hợp”. Đồng thời với khẩu lệnh là tư thế đứng nghiêm trang của người chỉ huy và một tay chỉ thẳng ra trước về hướng tập hợp (năm ngón tay khép kín), mắt nhìn thẳng trước.
	+ Đội hình đã tập hợp, người chỉ huy tiến vào khoảng giữa trước đội hình, đứng nghiêm quan sát điều khiển đội hình dóng hàng – điểm danh, dàn hàng, dồn hàng.
	+ Giáo viên quan sát, giúp đỡ (chỉ đạo) em làm chỉ huy thực hiện điều khiển đội hình. 
	+ Nhận xét, rút kinh nghiệm cho cả lớp cùng biết về nhiệm vụ của người chỉ huy đội hình và tầm quan trọng của vị trí đó.
Ở nội dung này tôi thường thu được kết quả cao với phương pháp tổ chức học sinh tìm hiểu – vào giờ, giáo viên hỏi, học sinh nêu ý hiểu -> học sinh thực hiện -> nhận xét, đánh giá – làm mẫu (nếu cần) . Lưu ý cho học sinh về tư thế, tác phong của người chỉ huy, cách lựa chọn phương hướng luyện tập; chọn học sinh có tác phong nhanh nhẹn (một nhóm học sinh) thực hiện (làm mẫu) theo hướng dẫn của giáo viên.
Các nhóm học sinh còn lại quan sát -> đưa ra ý kiến nhận xét về tư thế, tác phong, khẩu lệnh, hiệu lệnh, cách chọn phương hướng, địa hình tập hợp của người chỉ huy. Qua đó giúp học sinh nắm được và hình thành được kĩ năng, động tác của người chỉ huy.
* Vị trí của đội hình tập hợp : 
- Khi có lệnh tập hợp, các thành viên chú ý quan sát hiệu lệnh của người chỉ huy và khẩu lệnh tập hợp. Người đứng đầu hàng 1 nhanh chóng chạy đến đứng đối diện người chỉ huy và cách khoảng 0.8 đến 1 mét. Bên trái hàng số 1 là hàng số 2 số 3 (Toàn đội hình triển khai từ phải sang trái).
- Dóng hàng : người đứng sau cách người đứng trước 50 đến 60cm; hàng nọ cách hàng kia 20 đến 30cm.
Tổ trưởng tổ 1 đứng ngay ngắn, tay trái áp nhẹ vào đùi, tay phải giơ lên cao. Các thành viên tổ 1 đưa tay trái chạm vai bạn phía trước để giãn cho đúng khoảng cách, đồng thời nhìn vào gáy bạn để dóng hàng cho thẳng. 
Các tổ trưởng còn lại chống tay phải vào hông sao cho khủyu tay vừa chạm vào người đứng bên phải mình, đồng thời chỉnh hàng cho thẳng. Các thành viên của các tổ còn lại nhìn tổ viên của tổ 1 để dóng hàng ngang và nhìn đứng trước để dóng hàng dọc (không cần giơ tay ra trước).
Ở đây vận dụng phương pháp sau :
	+ Cử một nhóm học sinh thực hiện cho cả lớp quan sát các động tác dóng hàng, điểm số theo chỉ đạo của giáo viên. Học sinh quan sát đưa ra ý kiến nhận xét.
Giáo viên : đánh giá những điểm được, chưa được để học sinh cùng rút kinh nghiệm và sửa sai.
Tôi chỉ ra cho học sinh thấy được những động tác thường mắc sai sót, cách khắc phục nhằm hình thành cho các em kĩ năng vận động mới hoàn thiện hơn, ở mức độ cao hơn. Từ đó tiến hành cho học sinh luyện tập đồng loạt ở mức độ chậm rồi nhanh dần nhằm rèn luyện cho học sinh có tác phong nhanh nhẹn trong hoạt động. Luyện tập ổn định, củng cố ở một loại đội hình sau đó thay đổi vị trí tập hợp.
Sử dụng phương pháp chia nhóm luyện tập nhằm phát huy tính tự giác, tích cực của học sinh.
Qua đó học sinh dễ nắm bắt kĩ thuật, hình thành kĩ năng động tác cả vị trí của người chỉ huy và vị trí người tập hợp.
- Trong giảng dạy phần “Đội hình đội ngũ” tôi đã sử dụng phương pháp trên để giới thiệu và luyện tập cho học sinh.
- Trong giảng dạy, công tác làm mẫu là khâu quan trọng. Nên tôi thường sử dụng phương pháp soi gương, lấy một nhóm học sinh có khả năng nhanh nhẹn để làm chuẩn cho lớp quan sát. Kết hợp với đó là giới thiệu về kĩ thuật và học sinh luyện tập theo rồi chia nhóm học sinh luyện tập. Qua phương pháp này tôi nhận thấy học sinh nắm vững được kiến thức, dễ hình thành kĩ năng động tác của người chỉ huy cũng như ở từng vị trí thực hiện triển khai đội hình.
Sau khi giới thiệu, luyện tập một loại đội hình nào đó, tôi sử dụng cho học sinh tập theo tổ (nhóm). Từng nhóm thay phiên nhau trình diễn bài, các nhóm còn lại quan sát, theo dõi và đưa ra ý kiến, nhận xét, rút kinh nghiệm (như phương pháp thi đấu).
Qua việc sử dụng phương pháp này, tôi thu được kết quả cao, đa số học sinh nắm vững được kiến thức.
- Giảng dạy nội dung này yêu cầu người thầy phải nắm vững kĩ thuật động tác, các kiến thức có liên quan đến nội dung đội hình đội ngũ, cách tập hợp, triển khai các loại đội hình để phục vụ tốt cho giảng dạy.
Phương pháp giảng dạy phải phù hợp với từng đối tượng học sinh. Cần nắm được trong thực tế thường hay vận dụng loại đội hình nào. Học sinh đã có được những kĩ năng gì ? Để tăng cường luyện tập, củng cố cho học sinh nhằm nâng cao kĩ năng vận dụng trong các hoạt động tập thể khác. 
Ở đây phần đội hình đội ngũ thể dục lớp 4 chỉ mang tính chất ôn tập, củng cố và nâng cao kĩ năng vận động. Có tính kế thừa ở lớp dưới. Chính vì thế ở đây tôi xây dựng kế hoạch chủ yếu rèn luyện tư thế tác phong của người học sinh, rèn luyện ý thức tập luyện, tinh thần tập thể và bổ khuyết một số kĩ năng còn yếu kém, sai lệch và một số kiến thức cơ bản để vận dụng vào cuộc sống sinh hoạt.
 	2.2/ Về phía học sinh:
- Tích cực, tự giác, năng động trong việc tìm tòi, học hỏi về các nội dung, kiến thức chuẩn bị cho bài mới. Qua đó ít nhiều đã nắm được một số vấn đề nội dung của bài.
- Chú ý nghe giảng, quan sát động tác mẫu khi giáo viên giảng giải.
- Quan sát, theo dõi động tác của bạn, mạnh dạn đưa ra ý kiến nhận xét theo ý hiểu. Qua đó rút kinh nghiệm những điểm sai sót để sửa chữa.
- Tự giác luyện tập thường xuyên, xây dựng cho mình có thói quen luyện tập, tự mình nâng cao khả năng vận động, kĩ năng và thể lực.
- Qua luyện tập nắm vững được các kĩ năng động tác đội hình đội ngũ. Cách tập hợp, triển khai các loại đội hình, các động tác tại chỗ và di động.
- Biết vận dụng có hiệu quả các động tác đã học vào thực tế luyện tập cũng như các hoạt động tập thể khác trong và ngoài nhà trường.
- Qua học tập phần đội hình đội ngũ rèn cho mình có ý thức tốt; tư tưởng đúng đắn về việc học tập bộ môn, đoàn kết, giúp đỡ bạn, phát triển các tố chất vận động, tăng cường thể lực, góp phần giáo dục học sinh phát triển cân đối toàn diện.
Để giảng dạy đạt hiệu quả cao trong phần học này. Người thầy cần phải nghiêm túc nghiên cứu, phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tránh nhàm chán, gây được hứng thú luyện tập cho học sinh. Luôn chú ý đến các đối tượng học sinh trong lớp để vận dụng phương pháp cho phù hợp, linh hoạt, sáng tạo trong từng bài giảng.
3. Kết quả thực hiện :
Sau quá trình nghiên cứu và đã đưa vào giảng dạy ở lớp 4 trường tiểu học “A” Nhơn Mỹ – Chợ Mới – An Giang tôi đã thu được kết quả cụ thể sau phần kiểm tra như sau:
- Tổng số học sinh : 60 em
- Đạt loại : 
	+ Hoàn thành tốt : 19 học sinh, tỷ lệ : 31.7%
	+ Hoàn thành : 41 học sinh, tỷ lệ : 68.3%
	+ Chưa hoàn thành : 0 học sinh, tỷ lệ : 0%
Đạt trung bình trở lên : 100%.
Qua kết quả trên so với kết quả khảo sát đầu năm đã có bước tiến bộ.
4. Bài học kinh nghiệm và giải pháp thực hiện :
- Qua trình nghiên cứu và đưa vào giảng dạy thực tế đối với học sinh lớp 4 trường tiểu học “A” Nhơn Mỹ nơi tôi thực tế giảng dạy. Ở đây đối tượng học sinh không đồng đều cả về khả năng nhận thức và việc tìm tòi học hỏi để có hiểu biết trước khi vào luyện tập. Vì vậy gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình hình thành kĩ năng động tác. Trong giảng dạy có những học sinh, phải uốn nắn, sửa chữa rất nhiều lần các em mới có thể hình thành được các kĩ năng một cách tương đối chính xác.
Tuy gặp rất nhiều khó khăn như vậy. Nhưng với phương pháp mà tôi đã nghiên cứu và vận dụng đã giúp tôi rất nhiều trong công tác giảng dạy. Tôi đã giảng cho các em hiểu biết về ý nghĩa, tác dụng của việc luyện tập thể dục thể thao đối với cơ thể người tập. Làm cho cơ thể người tập phát triển cân đối, khỏe mạnh, tạo điều kiện cho trí tuệ phát triển.
Qua đó giúp các em có ý thức tốt trong luyện tập, nhanh chóng có được những kiến thức cơ bản, hình thành các kĩ năng vận động và vận dụng vào thực tế luyện tập và các hoạt động khác.
- Với phương pháp này tôi nhận thấy đây là một phương pháp dạy học phù hợp với phương pháp dạy học mới. Tạo cho học sinh phát huy được tính tích cực, tự giác trong luyện tập. Qua đó giáo viên dễ dàng phát hiện được những học sinh có khả năng vận động tốt, từ đó có hướng tổ chức phát triển các tố chất vận động cho học sinh.
- Phương pháp này giúp học sinh đỡ căng thẳng, đơn điệu, tạo ra không khí hào hứng trong luyện tập.
Và cá nhân tôi sẽ tiếp tục vận dụng vào giảng dạy và tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi nhằm nâng cao dần chất lượng phần học đội hình đội ngũ cho học sinh tiểu học với mục đích phục vụ tốt cho các hoạt động mang tính tập thể.
5. Kết luận:
- Việc nâng cao chất lượng dạy và học là một yêu cầu thường xuyên. Là một đòi hỏi của nhu cầu phát triển xã hội.
- Việc nghiên cứu đưa vào giảng dạy môn thể dục nhằm nâng cao sức khỏe, phát triển các tố chất vận động là vô cùng cần thiết. Giảng dạy phần đội hình đội ngũ cho học sinh lại là một vấn đề cần làm ngay trong các trường học.
- Từ thực tiễn đó tôi đã nghiên cứu và đưa vào thử nghiệm một số phương pháp được rút ra từ kinh nghiệm giảng dạy của bản thân và một số tài liệu hướng dẫn, sách tham khảo. Tôi thấy đây là một phương pháp phù hợp với yêu cầu, mục tiêu chung của sự nghiệp giáo dục và yêu cầu đặc trưng của bộ môn.
Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng giáo dục. Một số yếu tố vô cùng quan trọng đối với bộ môn hoạt động ngoài trời đó là sân bãi, dụng cụ, môi trường cho luyện tập.
Muốn nâng cao thể lực cho học sinh không những chỉ có sự nỗ lực của các em, sự nhiệt tình, sáng tạo của thầy mà còn phải có sự quan tâm, chỉ đạo của nhà trường, tổ chuyên môn, phụ huynh học sinh và các cơ quan, tổ chức có liên quan.
6. Kiến nghị - đề xuất :
Tôi mong được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của ban giám hiệu, tổ chuyên môn, hội đồng giáo dục giúp đỡ tôi hoàn thành tốt và ngày càng nâng cao chất lượng bộ môn nhất là phần đội hình đội ngũ và ứng dụng của nó mà tôi nghiên cứu.
 Mỹ Hội Đông, ngày 1 tháng 1 năm 2010
 Người viết
 Nguyễn Văn Chinh Lâm

File đính kèm:

  • docSKKN.doc
Giáo án liên quan