Sáng kiến kinh nghiệm: Đồ dùng dạy học và kĩ năng sử dụng đồ dùng dạy học môn Mỹ thuật Tiểu học - Nguyễn Hữu Dương

Phương pháp trực quan đối với môn Mĩ thuật có những yêu cầu cụ thể như: Yêu cầu về chuẩn bị đồ dùng trực quan và sử dụng đồ dùng trực quan. Vậy khi nói đến việc chuẩn bị đồ dùng trực quan ta phải nghĩ đến nhiệm vụ của môn Mĩ thuật, ngoài việc cung cấp những tri thức bộ môn và rèn kỹ năng nó còn nhiệm vụ giáo dục thẩm Mĩ cho học sinh. Do đó đồ dùng giảng dạy đưa ra cho học sinh học tập ngoài yêu cầu là đối tượng cho học sinh quan sát, phù hợp với nội dung bài giảng còn có yêu cầu là phải đẹp để thu hút sự chú ý của học sinh, tạo nên không khí nghệ thuật trong giờ học. Làm cho các em học sinh yêu thích vật mẫu bởi vẻ đẹp về hình dáng, màu sắc của mẫu làm phấn chấn tinh thần học tập của các em. Điều đó góp phần không nhỏ vào việc giáo dục thẩm Mĩ cho học sinh. Vì thế đồ dùng học tập môn Mĩ thuật không thể tuỳ tiện phải cần có sự chuẩn bị chu đáo trước theo yêu cầu của bài giảng. Mẫu vẽ to rõ ràng để học sinh nhìn rõ màu sắc, đường nét phải tươi vui, sáng sủa. Khi đồ dùng trực quan đã được chuẩn bị đầy đủ, thì tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi hình thức Mĩ thuật mà có những yêu cầu về trình bày trực quan, để làm sao phát huy được khả năng tư duy khai thách kiến thức triểt để ở mỗi học sinh.

doc14 trang | Chia sẻ: xuannguyen98 | Lượt xem: 590 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm: Đồ dùng dạy học và kĩ năng sử dụng đồ dùng dạy học môn Mỹ thuật Tiểu học - Nguyễn Hữu Dương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 đồng nghiệp, cùng với nghiên cứu các tài liệu nói về phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan và việc học tập các chuyên đề của phòng, của sở. Tôi nhận thấy chất lượng giảng dạy môn Mĩ thuật nhìn mặt bằng chung các trường là chưa cao. Đặc biệt là vấn đề sử dụng đồ dùng trực quan còn chưa nhiều hoặc có sử dụng đồ dùng trực quan nhưng học sinh lại không khai thác kiến thức cơ bản từ đồ dùng trực quan mà vẫn thụ động quan sát đồ dùng. Tại một số lớp ở một số trường lân cận tôi có dịp được tiếp xúc với các em học sinh và được biết các em rất thích học có đồ dùng trực quan. Nhưng qua thí điểm dạy cụ thể bằng các phương pháp các kỹ năng sử dụng đồ dùng khác nhau tôi đã nhận thấy việc sử dụng đồ dùng trong một tiết dạy, mà giáo viên sử lý dữ kiện của bài soạn với đồ dùng không đúng thì đồ dùng đó cũng vô tác dụng. Hay sử dụng đồ dùng để minh hoạ cũng vậy. Nếu không để học sinh khai thác một cách tự nhiên thì cũng không có hiệu quả. Vì thế mà tôi muốn đề cập đến những kỹ năng khi sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy môn Mĩ thuật ở tiểu học sao cho bài giảng đạt kết quả cao nhất từ đồ dùng trực quan. 
I. Lời mở đầu
Chương trình môn Mĩ thuật ở Tiểu học từ lớp 1 cho đến lớp 5 nội dung đã được chia thành 5 phân môn rõ rệt với những mục đích yêu cầu khác nhau, sản phẩm khác nhau cách thức và phương pháp cũng khác nhau. Bởi vậy trong mỗi giờ dạy của mõi phân môn thì đồ dùng trực quan và cách sử dụng, phương pháp sử dụng, hình thức khai khác nó cũng khác nhau hoàn toàn. Đồ dùng của phân môn này không thể sử dụng vào bài của phân môn khác được, có đồ dùng trực quan chỉ được sử dụng một lần cho một giờ dạy, hoặc có những đồ dùng không thể làm ra được mà chỉ có thể lấy từ tự nhiên và lấy từ cuộc sống mà thôi. Như vậy ở các giờ dạy Mĩ thuật đòi hỏi người giáo viên không những vững về kiến thức mà còn phải chuẩn bị chu đáo về đồ dùng, phải khoa học trong cách sử dụng, cách khai thác đồ dùng trực quan, để bài học đạt được kết quả cao nhất. Nói như vậy thì đồ dùng trực quan đó phải đạt được các yêu cầu tối thiểu về mặt nội nung khai thác và đặc biệt phải đạt được về các yêu cầu thẩm mĩ, bởi vì dò dùng dược dùng để giảng dạy môn Mĩ thuật.
II. Thực trạng
Trong thực tế ở các trường Tiểu học đã được cấp một lượng lớn đồ dùng trực quan cho môn học Mĩ thuật. Các đồ dùng với đầy đủ cho các phân môn, đa số là đồ dùng là tranh in trên giấy (tranh vẽ về các đề tài của học sinh, tranh của hoạ sĩ, các tranh dân gian và các bài trang trí, tranh vế các bài tập nặn, tranh tượng. Nói chung các đồ dùng này là tranh, ảnh). Đa số các tranh này đều đẹp. Thực tế các đồ dùng này được làm ra bởi những người không trực tiếp giảng dạy trẻ (học sinh tiểu học). Như vậy khi học Mĩ thuật thì học sinh chỉ được xem tranh và ảnh chứ không có gì khác. Xong trong thực tế môn Mĩ thuật và Mĩ thuật nói chung thì các sản phẩm Mĩ thuật lại rất đa dạng, phong phú và có thể nói là nhiều, rất nhiều. Ví dụ ở mỗi phân môn thường có các đồ dùng tương ứng với nó như: phân môn Thường thức Mĩ thuật thì đồ dùng của phân môn này nhất thiết phải là các sản phẩm Mĩ thuật (thì mới thường thức tối thiểu được), nó là phiên bản, là mô hình, là giai thoại, là các câu chuyện, là các vật dụng, đồ dùng, chất liệu làm ra sản phẩm; phân môn Vẽ theo mẫu thì đồ dùng trực quan cụ thể nhất, phổ biến nhất đó là các dồ dùng vật dụng trong cuộc sống thường ngày, đó là viên gạch, cái ấm, cái bát, hoa lá, trái cây, con vật, con người thật ; ở phân môn trang trí thì ứng dụng làm đồ dùng trực quan càng đa dạng và phong phú hơn, ngoài các bài , các trang trí mang tính chất cơ bản thì trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày có vô vàn các đồ vật được ứng dụng trang trí, đó là nguồn trực quan vô cùng, vô tận; ở phân môn vẽ tranh trực quan lại càng phong phú hơn, nhưng điều quan trọng hơn cả là “tranh của giáo viên” và “tranh của học sinh”. Đặc biệt tranh của giáo viên vẽ ra gây ấn tượng và gây hững thú cao nhất đối với học sinh của mình (điều này rất ít ngưồi quan tâm tới)...rất đa dạng và rất phong phú. Ngoài ra chưa kể đến các hình thức biểu hiện của các sản phẩm Mĩ thuật đó. Nhưng trong thực tế dạy học thì lại không như vậy.
Như ở phần trên đã đề cập đến, học sinh thích học Mĩ thuật, giáo viên được đào tạo sư phạm bài bản, môi trường học tập được cải thiện khá tốt, đồ dùng trực quan sinh động từ cuộc sống vậy tao sao rất ít giờ dạy Mĩ thuật thành công, thậm trí còn nhàm chán, căng thẳng hoặc ồn ào...Vậy nguyên nhân này xuất phát từ đâu, cách khác phục như thế nào?
B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Tình hình: 
Theo mục đích, yêu cầu mỗi bài giảng thì phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan luôn được vận dụng trong việc giảng dạy Mĩ thuật ở tiểu học vì nó phù hợp với đặc điểm của môn học và phù hợp với đặc điểm tri giác của học sinh.
Phương pháp trực quan đối với môn Mĩ thuật có những yêu cầu cụ thể như: Yêu cầu về chuẩn bị đồ dùng trực quan và sử dụng đồ dùng trực quan. Vậy khi nói đến việc chuẩn bị đồ dùng trực quan ta phải nghĩ đến nhiệm vụ của môn Mĩ thuật, ngoài việc cung cấp những tri thức bộ môn và rèn kỹ năng nó còn nhiệm vụ giáo dục thẩm Mĩ cho học sinh. Do đó đồ dùng giảng dạy đưa ra cho học sinh học tập ngoài yêu cầu là đối tượng cho học sinh quan sát, phù hợp với nội dung bài giảng còn có yêu cầu là phải đẹp để thu hút sự chú ý của học sinh, tạo nên không khí nghệ thuật trong giờ học. Làm cho các em học sinh yêu thích vật mẫu bởi vẻ đẹp về hình dáng, màu sắc của mẫu làm phấn chấn tinh thần học tập của các em. Điều đó góp phần không nhỏ vào việc giáo dục thẩm Mĩ cho học sinh. Vì thế đồ dùng học tập môn Mĩ thuật không thể tuỳ tiện phải cần có sự chuẩn bị chu đáo trước theo yêu cầu của bài giảng. Mẫu vẽ to rõ ràng để học sinh nhìn rõ màu sắc, đường nét phải tươi vui, sáng sủa. Khi đồ dùng trực quan đã được chuẩn bị đầy đủ, thì tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi hình thức Mĩ thuật mà có những yêu cầu về trình bày trực quan, để làm sao phát huy được khả năng tư duy khai thách kiến thức triểt để ở mỗi học sinh.
Từ những tình hình chung đó và kết hợp với tình hình thực tế tôi nhận thấy việc sử dụng đồ dùng trực quan mỗi giáo viên vẫn còn sự hạn chế khác nhau. Mà cụ thể được thể hiện ở chất lượng bài tập của các em chưa cao. Khả năng tư duy hiểu bài, nhớ bài thông qua đồ dùng trực quan là rất thấp. Thậm chí có em chỉ quan sát đồ dùng trực quan như một vật không tác dụng, các em hoàn toàn không nắm được, thâu tóm được nội dung chính của bài qua đồ dùng. Để khắc phục tình trạng này tôi đưa ra một số vấn đề từ thực tế cần giải quyết, nhằm mục đích giúp giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan có hiệu quả để cho các em học sinh biết tự khai thác nội dung bài giảng từ trực quan.
II - Những vấn đề cần giải quyết
1 – Kiểm tra chất lượng:
 Để xác định điều này trong tình hình chung hiện nay ở các trường tiểu học, tôi đã tiến hành kiểm tra chất lượng bằng việc dự giờ thăm lớp và trực tiếp giảng dạy. Nhìn chung tôi thấy học sinh tiểu học học môn Mĩ thuật với một thái độ chưa tích cực, vẫn còn phân biệt giữa các môn học cho nên việc dành thời gian cho môn mĩ thuật còn thiếu dẫn đến kết quả bài học không cao. Bên cạnh thái độ phân biệt vị trí môn học là khả năng tự giác tư duy còn yếu. Vậy lý do của việc học sinh không năm vững bài học là do đâu. Cụ thể tôi đã dự giờ thăm lớp để đánh giá điều này.
Bài 17 (lớp 5) bài Thường thức Mĩ thuật - Xem tranh hoạ sĩ : Tranh “Du kích tập bắn” của Nguyễn Đỗ Cung. Tôi đã dạy đơn thuần, khai thác bài như trong sách giáo viên, sách giáo khoa với cách khai thác trực quan theo phương pháp truyền thống. Sử dụng đồ trực quan và thực hiện đầy đủ tiến trình lên lớp của một giờ giảng. Nhưng đồ dùng trực quan mà tôi đưa ra là đồ dùng hiện có của thư viện. Đồ dùng còn nhỏ quá, khai thác bài học dựa vào và bám sát sách giáo viên và sách giáo khoa. Dẫn đến việc học của học sinh không phát huy được khả năng tư duy, quan sát của đồ dùng mà học sinh quan sát thụ động, không khai thác được nội dung bài từ đồ dùng. Giáo viên còn phải làm việc nhiều, giờ học trầm không sôi nổi, lượng thông tin cần được khắc sâu thì khô cứng, thiếu thốn, đặc biệt là tri thức học sinh lĩnh hội được là na ná giống nhau (đó là điều cấm kị của học môn Mĩ thuật) nó ngược lại với mục tiêu của chương trình.
Kết quả thu được qua bài thực hành sau bài dạy :
Lớp
5
Tổng
Thích
Không thích
Không ý kiến
30
6
20
4
Như vậy kết quả cho thấy số lượng học sinh không thích còn nhiều. Qua đó chứng tỏ rằng phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan không kết quả là do thái độ tuỳ tiện, đồ dùng không chuẩn mực, không hay, giáo viên khai thác không sáng tạo, không mới.
Bài 25. Vẽ trang trí : Vẽ tiếp hoạ tiết và vẽ màu vào hình chữ nhật (lớp 3)
Tôi vào bài rất thuyết phục, tiến trình của một giờ dạy được thực hiện tuần tự đầy đủ, nhưng việc sử dụng đồ dùng trực quan của tôi chỉ là tính chất minh hoạ, mô phỏng, học sinh chỉ được làm quen mà không được nhận xét, mổ xẻ vấn đề từ đồ dùng trực quan. Học sinh không tự khai thác được nội dụng của bài qua đồ dùng trực quan mà thụ động nhìn đồ dùng trực quan. Vì vậy, bày thực hành vẽ màu của học sinh cả lớp giống thầy gần như là hoàn toàn.
Bài 27. Vẽ theo mẫu: Vẽ cây (lớp 4)
Tôi trực tiếp lựa chọn phương pháp để chuẩn bị cho đối chứng.
Ở bài này tôi cũng xây dựng một giáo án chi tiết với đầy đủ các bước lên lớp cũng kết hợp nhiều phương pháp trong khi giảng. 
Trong phần giới thiệu tô cho học sinh xem tranh vẽ cây của hoạ sĩ (tranh vẽ màu, kể cả tranh có xu hướng lập thể và trừu tượng). Học sinh ngạc nhiên và thích thú bởi hình dáng, màu sắc và cả cách sắp xếp.
ở hoạt động quan sát nhận xét thì trực quan không phải là tranh vẽ nữa. Trực quan chính là những cây mà học sinh chuân bị mang theo. Cho các em kể về đặc điểm hình, màu của cây mà mình chuẩn bị, cho các em so sánh với cây của các bạn khác.(điều này làm cho các em cảm nhận được sự phong phú về hình dáng màu sắc của cây) và đồng thời hình thành ý tưởng trong đầu trước khi các emn thực hành.
Trong hoạt động cách vẽ (tuỳ từng bài mà có sử dụng trực quan hay không) trong bài này tôi vẫn sử dụng cây thật đã chuẩn bị mà gợi ý các em suy luận về cách vẽ. 
VD: - Nhìn cây này nếu vẽ nó em sẻ vẽ phần nào trước?
Nó rất nhiều lá, chúng ta có nên vẽ từng chiếc lá không?
Có nhất thiết phải vẽ màu giống như thật không?...
Trước khi vào phần thực hành, điều đặc biệt là tôi cho các em xem tranh do chính tôi vẽ để các em tham khảo (tranh “chợ đông”) và nói cho các em biết vẽ nó là một công việc rễ ràng, không khó khăn gì, chỉ cần muốn vẽ, thích vẽ, tập trung vào vẽ, vẽ đúng cách là làm được thôi.
Khi thực hành các em đều hăng say, vui vẻ, thoái mái. Kết quả các bài vẽ đa dạng và phong phú, không em nào giống bài của em nào, các bức tranh đều có của các em đều có cảm nhận riêng, tư duy riêng, tình cảm riêng và sự biểu hiện cũng rất phong phú. Đó là kết quả củamột người dạy mĩ thuật mong đợi.
Qua khảo sát giờ dạy tôi thu được kết quả sở thích học một giờ như vậy:
Lớp 4
Sĩ số 32
Tỉ lệ
Thích
32
100%
Không thích
0
0%
Nhìn chung qua ba tiết dạy với cùng trình tự lên lớp như nhau cũng có đầy đủ đồ dùng trực quan khi giảng dạy nhưng cách sử dụng đồ dùng và cách mà giáo viên vận dụng khai thác khác nhau ở mỗi tiết dạy thì cho kết quả khác nhau. Nói tóm lại khi sử dụng đồ dùng trực quan, đúng lúc đúng chỗ, đúng đối tượng và đúng mục tiêu của bài học đều đem lại không khí nghệ thuật trong giờ học mà còn có tác dụng tích cực đến khả năng quan sát, phân tích đồ dùng của học sinh, đáp ứng được giáo dục thẩm mĩ, đồng thời phát triển được tư duy Mĩ thuật cho học sinh năng khiếu.
2. Nguyên nhân của những hạn chế
Nguyên nhân đầu tiên của những hạn chế đó là sự hạn chế của giáo viên. Tôi cho rằng học môn Mĩ thuật, trò muốn hiểu và nắm bắt nội dung bài nhanh, hiệu quả thì người giáo viên phải có một tâm huyết thực sự với môn học của mình khi đứng trên bục giảng. Giáo viên phải là một hình tượng trong mắt học sinh, là người đóng vai trờ chủ đạo trong mọi phương pháp đặc biệt là phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan, vì nó là nhịp càu chuyển tải nhanh nhất mục tiêu của bài học đến với học sinh. Thầy phải là người chủ động dẫn dắt để trò tự giác khám phá tìm hiểu và tự lĩnh hội kiến thức,thầy phải luôn luôn làm cho học sinh thấy mới, thấy lạ, thấy hay trong mỗi đồ dùng và luôn hứng thú khi được học. Nhưng trong thực tế giảng dạy thì vẫn còn một số giáo viên sử dụng đồ dùng trong bài giảng không đạt. Cụ thể vẫn còn một số giáo viên cho rằng đồ dùng trực quan là mẫu đẻ cho học sinh làm theo, cho nên nhiều khi giáo viên minh hoạ xong lại để nguyên cho học sinh quan sát để thực hành. Vì thế mà học sinh không nắm vững kiến thức bài hiểu bài không lâu, thụ động khi thực hành, bài làm giống cô, giống thầy, không tư duy sáng tạo. Bài tập ở nhà không làm được bỏ trống nhiều. Một số giáo viên khác thì sử dụng đồ dùng trực quan quá sơ sài, nghèo nàn, đồ dùng trực quan đưa ra cho học sinh lại không phù hợp với các bước nội dung cần truyền đạt, thiếu thông tin, thiếu thẩm Mĩ, không phù hợp với các phương pháp giảng bài cũng dẫn đến tình trạng học sinh không thích giáo viên đưa ra đồ dùng hoặc đưa ra đồ dùng mà học sinh không hiểu cô giáo đưa ra để làm gì? nhằm mục đích gì? Bên cạnh việc sử dụng đồ dùng trực quan không hợp lý như vậy là tiết giảng có đồ dùng trực quan được giáo viên mô phỏng, minh hoạ bằng lời giảng. Một loại trực quan ảo ở phương pháp cũ (học như không học) không đem lại kết quả cao, học sinh tư duy mơ hồ, tưởng tượng viển vông và kiến thức thu nạp được cũng không sâu.
Ngoài những yếu tố còn hạn chế từ phía giáo viên đã nêu ở trên vẫn còn rất nhiều yếu tố khác dẫn đến việc sử dụng đồ dùng trực quan không đạt kết quả cao trong giờ giảng. Một trong những nguyên nhân nữa phải kể đến nguyên nhân còn tồn tại ở học sinh. Không phải cứ thầy tốt là học sinh phải tốt mà còn ở học sinh có được ý thức tích cực tự giác học hay không? Đã thực sự coi đồ dùng là nơi khai thác kiến thức chính hay chưa hay vẫn phải phụ thuộc vào sự trả lời dẫn dắt của thầy. Đây là khả năng tự phân tích khai thác bài giảng thông qua vai trò người thầy của học sinh.
Từ những khó khăn, hạn chế của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong thực tế giảng dạy. Tôi đã tìm hiểu nghiên cứu và thấy có một số vấn đề cần giải quyết.
3. Vấn đề cần giải quyết
Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ giảng mĩ thuật là việc làm ban đầu, việc làm không thể thiếu đối với người giáo viên chuyên Mĩ thuật khi đứng trên bục giảng. Nó là đặc thù của bộ môn vì thế giáo viên cần phải hết sức quan tâm chú trọng đến sự chuẩn bị đồ dùng trước giờ lên lớp sao cho thật chu đáo, thật đầy đủ và sát với yêu cầu, mục đích bài soạn. Ngoài ra, đồ dùng được chuẩn bị phải có thẩm Mĩ.
Từ những vật tĩnh, những vật vô chi, vô giác giáo viên phải thổi vào đó cái hồn của sự vật, tiếng nói của sự vạt và phải là người chuyển cái hồn của sự vật, tiếng nói của sự vật đến từng học sinh có như vậy thì đồ dùng trực quan khi được đưa ra mới phát huy tác dụng và có sức thuyết phục.
Phải tạo cho lớp học một không khí nghệ thuật bằng kiến thức có ở đồ dùng trực quan, bằng kiến thức của thầy về trực quan để học sinh thực hành tốt.
Trực quan không phải chỉ là các đồ vật, các phương tiện cụ thể mà trực quan còn là chính hình tượng, bản lĩnh của thầy, sự hiểu biết của thầy (đó là vốn hiểu biết về mĩ thuật, là những câu chuyện về Mĩ thuật, những bày hát, những câu thơ)
III - Phương pháp tiến hành
1 - Phương pháp nghiên cứu
Để tìm ra được nguyên nhân sử dụng đồ dùng trực quan không có hiệu quả, từ đó khắc phục được những điểm cần giải quyết trong việc sử dụng đồ dùng trực quan thì người nghiên cứu sáng kiến phải tìm ra được thứ tự của từng bước đi, bởi đây là một vấn đề rất cần thiết để người viết ra những suy nghĩ có sức thuyết phục. Tôi nghĩ rằng mỗi phương pháp tôi đưa ra đã đều đem lại kết quả tốt có quá trình nghiên cứu sáng kiến.
- Phương pháp quan sát:
Tôi đã sử dụng phương pháp quan sát để tiến hành quan sát thực tế trực tiếp, gián tiếp, bằng cách dự giờ, nghiên cứu tài liệu, quan sát học sinh khi nghe giảng, khi học sinh thực hành bài tập và quan sát cách soạn giảng của giáo viên chuyên khác.
- Đàm thoại:
Đàm thoại với giáo viên và đàm thoại với chính những học sinh học Mĩ thuật.
- Phương pháp điều tra:
Để biết được thái độ học tập Mĩ thuật của học sinh và xem các em có hứng thú quan sát đồ dùng trực quan để khai thác nội dung bài giảng hay không?
- Thực hành đối chứng:
Dạy thực hành để đối chứng
- Phương pháp thống kê toán học:
Sử dụng các bảng biểu để thống kê kết quả bài học.
2. Biện pháp tiến hành:
Bước 1: Giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung bài giảng, phải có giáo án chi tiết trước khi lên lớp, phải tìm phương pháp truyền đạt nhanh nhất, ngắn nhất từ trực quan. Bởi đồ dùng trực quan nó phù hợp với đặc điểm môn học, phù hợp với đặc điểm tri giác của học sinh (tri giác bằng trực quan cụ thể?)
Bước 2: Chuẩn bị đồ dùng trực quan phù hợp với các tiến trình giảng trong mục đích yêu cầu bài soạn. Đồ dùng gồm mẫu vẽ như đồ vật, dụng cụ sinh hoạt, hoa quả, hình khối...Tranh, ảnh như các phiên bản tranh, ảnh, minh hoạ của giáo viên. Tất cả phải đáp ứng yêu cầu thẩm mĩ, sáng sủa.
Bước 3: Sử dụng trực quan để có hiệu quả tôi đi vào trực tiếp giảng dạy. Tôi dạy mỗi lớp trong một khối, một phương pháp khác nhau để đối chứng với phương pháp tiêu cực, tích cực.
Qua thực tế giảng dạy, qua học hỏi đồng nghiệp và qua nghiên cứu các tài kiệu tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình về đồ dùng trực quan, về cách thức sử dụng, khai thác đồ dùng trực quan trong các phân môn Mĩ thuật để học hỏi, để trao đổi kinh nghiệm, để dạy môn Mĩ thuật đạt kết quả cao hơn trong nhà trường Tiểu học.
Do điều kiện, hoàn cảnh khách quan cũng như chủ quan, tôi không thể tránh khỏi những hạn chế trong quá trình thực hiện. Đối với từng phân môn điển hình của môn Mĩ thuật tôi vẫn chưa đưa ra được biện pháp cụ thể, mới chỉ dừng lại ở mức độ, mới nêu ra được các bước sử dụng trực quan và hướng sử dụng, khai thác trực quan ở các phân môn chứ chưa đi trực tiếp hết các bài của các khối lớp.
IV - Kết luận sau khi tiến hành nghiên cứu
Sau khi tiến hành thực nghiệm tôi nhận thấy rằng: 
a ) Đối với phân môn Thường thức Mĩ thuật
Các bài Thường thức luôn là những bài mà đa số giáo viên cảm thấy ngại dạy bởi phân môn này đồi hỏi lượng kiến thức hiểu biết khái quát của giáo viên về Mĩ thuật, đặc biệt về lịch sử Mĩ thuật và Mĩ thuật học. Đòi hỏi khi lên lớp giáo viên phải luôn sẵn sàng về nội dung bài học, sẵn sàng giải quyết những thác mắc của học sinh về: tác giả, tác phẩm, thể loại, chát liệu, cách thức, ý nghĩa, vì sao đẹp, vì sao không, các câu hỏi liên quan đến lịch sử, các câu hỏi liên quan đến tác giả (sở thích, tính cách, cuộc sống, những mẫu chuyện về tác giả)cuối cùng còn lại là sự linh hoạt của giáo viên, cái duyên của giáo viên khi truyển tải đến học sinh.
b) Đối với phân môn vẽ theo mẫu
Vẽ theo mẫu (tức là hình hoạ - là căn bản của mĩ thuật). Vì vậy đổi hỏi sự chính sác về vật mẫu, mẫu phải mang tính chất điển hình (chính sác với yêu cầu của bài), chính sác với nhận thức của học sinh và chính sác trong quá trình truyền tải tới học sinh. Đồi hỏi giáo viên phải linh động khi chuẩn bị mẫu, đặt mẫu, phân tích mẫu và minh hoạ mẫu, làm sao cho học sinh hiểu được mẫu và biết cách thể hiện mẫu.
c) Đối với phân môn trang trí.
Trang trí là phân môn mang tính chất ứng dụng cao trong cuộc sống, vì vậy ngoài việc đồ dùng trực quan là các bài trang trí cơ bản ra thì các sản phẩm, đồ dùng, vật dụng trong sinh hoạt hàng ngày là vô cùng quan trọng. Nó gần gũi nhất với học sinh và chính điều này giúp cho học sinh cảm nhận về cái đẹp và tác dụng của trang trí nhanh chóng nhất. (các đồ dùng phổ biến trong dạy bài trang trí thường là: khăn, áo, thảm, mũ, bát, đĩa, lọ hoa viên gạch hoa, cách trang trí nơi công cộng hoặc trang trí trong gia đình, ảnh chụp hoặc thực tế ở các cung đình, đình chùa).
d) Đối với tập nặn tạo dáng 
Cuộc sống tự nhiên là đối tượng phong phú nhất giúp học sinh trực quan. Giáo viên vận dụng, liên hệ linh hoạt trong quan sát, trong tập nặn và trong thực hành nặn. Đa số học sinh thích học nặn hơn cả trong các phân môn của Mĩ thuật. Đồ đùng trực quan tr

File đính kèm:

  • docSKKN_Do_dung_va_ky_nang_su_dung_do_dung_trong_day_Mi_thuat_o_truong_Tieu_hoc.doc
Giáo án liên quan