Phương pháp gợi mở trong dạy học môn Mỹ thuật ở trường THCS Thụy Sơn - Thái Thụy - Thái Bình
- Về phía học sinh:
+ Mỗi bộ phận nhỏ - học sinh khá giỏi hay những học sinh yêu thích vẽ thường không hài lòng với bài vẽ của mình, tiếp thu gợi ý của giáo viên và sửa chữa điều chỉnh hoặc làm lại một cách có suy nghĩ và hào hứng. Điều đó chứng tỏ học sinh luôn hướng tới cái đẹp, mong muốn vẽ đẹp.
+ Phần lớn học sinh bằng lòng với kết quả bài vẽ của mình, do vậy thường thoả mãn với suy nghĩ và cách vẽ ban đầu, ít chú ý đến sự gợi ý của giáo viên, không muốn điều chỉnh, sửa chữa. Tình trạng ngại sửa chữa những chỗ chưa hợp lý ở bài vẽ khá phổ biến.
+ Một bộ phận học sinh phải sửa thì đấy là vì sợ hoặc đã thấy ghi rõ thiếu sót và sửa theo lời chỉ dẫn của giáo viên một cách máy móc, suy nghĩ, ít sàng lọc. Trường hợp này thường thấy ở học sinh yếu và trung bình.
và dễ dàng hơn, giúp chúng ta có thể đảm nhiệm được dạy –học chương trình mỹ thuật ở trường THCS. Nhưng dạy – học mỹ thuật như thế nào? Phương pháp dạy – học mỹ thuật sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về chương trình mỹ thuật ở THCS về đặc điểm, nội dung, yêucầu của các phân môn. Vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh, thường thức mỹ thuật, về học sinh THCS và khả năng học mỹ thuật của các em. Đồng thời phương pháp dạy – học mỹ thuật cung cấp cho chúng ta những thông tin về các phương pháp dạy – học mỹ thuật chung và phương pháp các phân môn, cách thiết kế bài giảng, làm đồ dùng dạy – học, cách dạy và cách hướng dẫn học sinh vẽ trên lớp, vẽ ở nhà,... đảm bảo cho mọi người dạy được môn mỹ thuật ở trường THCS. Nhưng vẫn là câu hỏi : “Dạy như thế nào?”. Dạy tốt hay bình thường? Điều đó tùy thuộc vào ý thức học tập của mỗi người. Mong các em rất thích, song có ít điều kiện tìm hiểu, tiếp xúc. Các em sẽ không trở thành họa sĩ tất cả mà học mỹ thuật của học sinh để nâng cao khả năng nhận thức của mình, để học có hiệu quả hơn các môn học khác, hiểu về cái đẹp để sống và “Hành động theo quy luật của cái đẹp”. Sự hào hứng học mỹ thuật của học sinh là nguồn động viên lớn, tạo điều kiện cho chúng ta học mỹ thuật tốt hơn và trau dồi về phương pháp để dạy tốt hơn, đáp ứng lòng mong đợi của học sinh, của xã hội. II. Khái niệm, ỹ nghĩa của phương pháp gợi mở 1. Khái niệm phương pháp gợi mở Gợi mở là gợi ý, vạch ra hướng thực hiện tiếp theo hướng giải quyết vấn đề nào đó cho học sinh. Khi học sinh đang gặp khó khăn, chưa tìm ra cách vẽ, như bố cục, cách phác hình phân bố hình mảng, tìm hình tượng, tương quan đậm nhạt. Hoặc học sinh đang băn khoăn, chưa hài lòng với bản vẽ, như đang muốn tìm kiếm thêm một cái gì đó để hoàn chỉnh hơn, đẹp hơn lúc đó học sinh cần có sự tác động của giáo viên, của bạn tác động đúng lúc, đúng chỗ, có mức độ, có chất lượng sẽ tạo điều kiện cho học sinh suy nghĩ thêm, tìm tòi tiếp và giải quyết được bài tập hay nâng cao chất lượng bài vẽ bằng khả năng của mình. Đối với mỹ thuật, môn học yêu cầu nhiều đến suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo thì gợi mở để mỗi học sinh có cách nghĩ, cách giải quyết bài vẽ theo ý mình, bằng khả năng của mình là rất cần thiết. Đối với dạy- học mỹ thuật, gợi mở là một trong những phương pháp mang lại hiệu quả cho bài vẽ hơn cả, vì nó phù hợp với năng lực và cảm nhận của học sinh. Vì thế giáo viên nên gợi ý ngay trên cơ sở đã có của bài vẽ (bố cục, hình tượng, đậm nhạt ,...) để mỗi học sinh suy nghĩ, tìm tòi, bổ sung, nâng chất lượng cho bài học của mình một cách cụ thể. 2. ý nghĩa phương pháp gợi mở Việc sử dụng phương pháp gợi mở trong giảng dạy môn mỹ thuật có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc tiếp thu hiệu quả kiến thức của bài học cho học sinh. Khi học sinh gặp lúng túng trong bài vẽ, trong cách giải quyết vấn đề nào đó, thì phương pháp gợi mở là chùm chìa khóa mở tung tất cả vấn đề đó giúp học sinh không còn lúng túng và tiếp thu bài học một cách tốt nhất. Đối với giáo viên sử dụng phương pháp gợi mở cũng giúp mình nâng cao kỹ năng sư phạm, kiến thức chuyên ngành và kỹ năng chuyên truyền đạt cho học sinh một cách dễ hiểu, hiệu quả và khiến bài dạy của giáo viên được nâng cao. III. Phương pháp gợi mở trong dạy – học môn mỹ thuật 1. Gợi mở như thế nào Phương pháp gợi mở thường được thực hiện khi dạy lý thuyết và thực hành Ví dụ: - Đối với bài dạy lý thuyết, giáo viên thường dùng các câu hỏi kết hợp với việc chỉ ra trên thực tế đối tượng (mẫu vẽ, hình họa,...) để học sinh quan sát, suy nghĩ và tự tìm ra cách giải quyết hay nhận xét hoặc kết luận của mình. Chẳng hạn: em thử so sánh độ đậm nhạt của mẫu và bài vẽ của mình xem thế nào? (vẽ theo mẫu), hoặc 2 bài này giống nhau và khác nhau ở chỗ nào? (Bố cục, màu sắc). Em thích bài vẽ nào? vì sao? (vẽ trang trí, vẽ tranh) - Đối với bài dạy thực hành, giáo viên quan sát học sinh làm bài, dựa vào thực tế từng bài vẽ cụ thể, đặt các câu hỏi gợi ý, mở ra cách giải quyết sao cho phù hợp với thực lực của mỗi học sinh. * Giáo viên cần lưu ý: + Các câu hỏi gợi mở phải mang tính khích lệ, động viên, sao cho mỗi học sinh cần phải suy nghĩ, tìm kiếm thêm để bài vẽ đẹp hơn, mong muốn có bài vẽ đẹp như ý muốn. + Lời nhận xét, gợi mở tuyệt nhiên không mang tính phủ định như : “Thế nào không đẹp” hoặc khẳng định “Không làm thế này”, hay mệnh lệnh như: “Phải làm lại như thế này mới đúng”. + Lời nhận xét, câu hỏi phảI mềm và luôn ở trạng tháI nghi vấn. Ví dụ: * Đối với học sinh kém: - Cần gợi mở cụ thể hơn, giúp các em đó nhận ra ngay chỗ chưa đúng và sửa lại để hoàn thành bài tập theo yêu cầu đề ra. Ví dụ “có lẽ ở chỗ này”, “màu này” chưa đẹp, “hình này” chưa cân đối vì chỗ này rộng, hẹp,… nên sửa “như thế này, thế này”…. * Đối với học sinh trung bình: - Cần gợi mở ở những chỗ chưa hợp lý và yêu cầu học sinh quan sát, suy nghĩ và tự điều chỉnh, sửa lại. Ví dụ cách sắp xếp hình mảng của bài này chưa cân đối (các hình mảng chưa có trọng tâm, xô lệch,…). Cần điều chỉnh lại được không? * Đối với học sinh khá: - Câu gợi ý nhằm vào những chỗ “có vấn đề” hay chưa hợp lý về bố cục, hình tượng, màu sắc,… và sau đó để học sinh tự tìm, tự điều chỉnh hay sửa chữa. Ví dụ “chỗ này, màu này” như thế nào? Làm sao cho bài đẹp hơn? * Đối với học sinh giỏi: - Có thể yêu cầu cao hơn: gợi ý để các em tự tìm ra những chỗ chưa hợp lý về bố cục, chưa đẹp về màu,… ở bài vẽ của mình. Ví dụ: thử tìm xem bài vẽ có chỗ nào chưa hợp lý, còn sửa được nữa không? hoặc : có thể vẽ khác đi được không? Thử xem nào… * Những điểm cần chú ý khi sử dụng phương pháp gợi mở: - Về phía giáo viên: + Giáo viên cần coi trọng và vận dụng có hiệu quả phương pháp gợi mở, cụ thể là: gợi mở với những mức độ khác nhau cho từng đối tượng và tôn trọng tính độc lập suy nghĩ của học sinh. + Không nên yêu cầu học sinh phải như thế này, phải như thế kia – bắt học sinh sửa theo ý mình, vì gò ép, rập khuôn không phải là gợi ý,mà là dạy - học thụ động. Mở ra cho học sinh cách nghĩ, cách cảm nhận để các em tự sửa, điều chỉnh theo tinh thần góp ý của giáo viên mới là dạy - học phát huy tính tích cực của mỗi cá thể. - Về phía học sinh: + Mỗi bộ phận nhỏ - học sinh khá giỏi hay những học sinh yêu thích vẽ thường không hài lòng với bài vẽ của mình, tiếp thu gợi ý của giáo viên và sửa chữa điều chỉnh hoặc làm lại một cách có suy nghĩ và hào hứng. Điều đó chứng tỏ học sinh luôn hướng tới cái đẹp, mong muốn vẽ đẹp. + Phần lớn học sinh bằng lòng với kết quả bài vẽ của mình, do vậy thường thoả mãn với suy nghĩ và cách vẽ ban đầu, ít chú ý đến sự gợi ý của giáo viên, không muốn điều chỉnh, sửa chữa. Tình trạng ngại sửa chữa những chỗ chưa hợp lý ở bài vẽ khá phổ biến. + Một bộ phận học sinh phải sửa thì đấy là vì sợ hoặc đã thấy ghi rõ thiếu sót và sửa theo lời chỉ dẫn của giáo viên một cách máy móc, suy nghĩ, ít sàng lọc. Trường hợp này thường thấy ở học sinh yếu và trung bình. IV. Phương pháp gợi mở trong từng phân môn mỹ thuật 1. Phương pháp gợi mở trong phân môn Vẽ theo mẫu - Đây là phân môn khó nhất trong các phân môn của mỹ thuật và tương đối khó dạy đối với giáo viên và khó học đối với học sinh. - Vẽ theo mẫu phải vẽ đi vẽ lại các hình khối cơ bản, đồ dùng quen thuộc. - Phương pháp hướng dẫn vẽ thường chung chung cho tất cả các bài, giáo viên ít quan tâm đến yêu cầu kiến thức cơ bản của từng loại bài để tìm ra đặc điểm, hình dáng, cấu trúc về bố cục đậm nhạt, vẻ đẹp riêng của mẫu. - Vẽ theo mẫu là phân môn khó so với vẽ trang trí và vẽ tranh. Vì vậy khả năng quan sát của học sinh còn hạn chế, chưa chú ý so sánh để tìm ra tỉ lệ của mẫu. Bố cục bài vẽ không đẹp thường không cân đối giữa hình vẽ và tờ giấy. Hình vẽ chung chung chưa sát tỉ lệ, do vậy không lột tả được đặc điểm của mẫu. - Về đậm nhạt: khi thì mở ảo làm cho hình yếu. Lúc lại quá tách bạch giữa các mảng, ngay cả ở hình trụ hình cầu làm cho bài vẽ khô cứng. - Từ những đặc điểm của phân môn vẽ theo mẫu, giáo viên cần vận dụng phương pháp gợi mở về bài dạy phân môn này. Khi học sinh làm bài, sự gợi ý của giáo viên rất cần thiết. Điều đó thể hiện ở chỗ: + Gợi ý học sinh ngay ở từng bài vẽ về cách vẽ hình, tìm tỉ lệ. + Chỉ ra ở mẫu thực để học sinh so sánh, tìm ra những chỗ chưa đúng ở bài vẽ và tự chỉnh. 2. Phương pháp gợi mở trong phân môn Vẽ trang trí - Vẽ trang trí là phân môn tự do trong suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo về bố cục, họa tiết, sắc màu… Trên cơ sở lý thuyết chung, phát triển khả năng suynghĩ, sáng tạo, độc lập trong học tập của học sinh. - Kết quả bài vẽ trang trí thấy rõ ràng hơn sau mỗi giờ học về nhận thức thẩm mỹ và thực hành, do đó kích thích tinh thần học tập của các em. Sản phẩm do trang trí tạo nên gắn liền với cuộc sống của mỗi con người và thiết thực gần gũi với học tập, sinh họat của học sinh. - Học sinh thích học vẽ trang trí vì các em được làm bài tự do, được dùng màu sắc. Hơn nữa, loại bài này phù hợp với học sinh nữ, bởi các em có tâm lý muốn làm đẹp và mọi công việc của các em đòi hỏi tính cần cù và khéo léo hơn. Nhìn chung, vẽ trang trí của học sinh tính sángtạo còn hạn chế. - Trong dạy học phân môn này cần sử dụng phương pháp gợi mở: + Gợi ý học sinh quan sát, nhận xét, tìm ra sự khác nhau của bố cục mảng, cách vẽ họa tiết, cách vẽ theo mẫu. + Chỉ ra cho học sinh những cái được,cái chưa được ngay ở mỗi bài vẽ\ + Gợi ý, động viên tìm tòi,sáng tạo. 3. Phương pháp gợi mở trong phân môn Vẽ tranh Vẽ tranh không đơn giản là vẽ được các hình ảnh, vẽ được màu mà qua đó các hình ảnh, màu sắc của tranh “nói” được tạo nên điều gì để người xem cảm nhận được và tỏ thái độ yêu, ghét, vui,buồn và suy nghĩ hành động theo cảm nhận của mình. Qua vẽ tranh, phát triển khả năng quan sát, tìm hiểu thực tiễn cuộc sống xung quanh, giáo dục học sinh tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người. Một số học sinh thích vẽ tranh, nhiều bức tranh có ý hay, dí dỏm ở cách vẽ, khai thác nội dung, cách bố cục,tìm hình ảnh và màu vẽ. Qua tranh, các em đã có ý thức tìm hiểu cuộc sống xung quanh hơn. Nhìn chung, tranh của học sinh còn hạn chế nhiều về cách tìm ý, bố cục thiếu trọng tâm,dàn trải, hình tượng hiếu động và màu sắc chung chung,chưa làm rõ ý định, hãy còn công thức hay lặp lại một cách tự nhiên như: cây phải màu xanh, đất phải màu nâu, chưa quan sát đến sắc thái đậm nhạt của màu. - Khi vẽ tranh, cần vận dụng phương pháp gợi mở là chủ yếu để gợi ý cho các em một số đề tài, giúp các em có trí tưởng tượng phong phú hơn trongbài vẽ của mình. 4. Phương pháp gợi mở trong phân môn Thường thức mỹ thuật - Dạy học thường thức mỹ thuật tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với các giá trị văn hoá và hiểu hơn về thực tế xung quanh. Thông qua tìm hiểu, phân tích các công trình, tác phẩm mỹ thuật ở bố cục, hình tượng, màu sắc, tạo điều kiện cho học sinh cảm nhận vẻ đẹp và có ý thức trân trọng, bảo vệ và giữ gìn văn hoá của dân tộc và nhân loại. Đây là phân môn học sinh không làm bài tập thực hành, là phân môn lịch sử mỹ thuật tóm lược. - Lịch sử mỹ thuật gắn liền với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá của một đất nước, một vùng hay một mốc thời gian. Do đó dạy và học phân môn này cần có kiến thức về các khoa học xã hội và cách nhìn tổng quát, nhận xét sâu sắc, phân tích có cơ sở. - Thưởng thức mỹ thuật nâng cao trình độ văn hoá chung cho học sinh, bồi dưỡng thẩm mỹ thị giác, giáo dục tình yêu quê hương, đất nước và tạo điều kiện cho các em học tập các phân môn khác có hiệu quả hơn. - Trong phân môn này thì phương pháp gợi mở được sử dụng song song cùng với các phương pháp khác. Nó là một phần nhỏ trong các phương pháp được sử dụng trong phân môn để gợi ý cho học sinh ở những câu hỏi khó, dài để các em không thấy còn lúng túng. Chương II Thực trạng của vấn đề I. Giới thiệu về trường THCS Thuy Sơn - Thái Thuỵ - Thái Bình 1. Vị trí địa lý Phía đông giáp xó Thụy Dương, phía tây giáp Thụy Phong, phía nam giáp Thái Thủy, phía bắc giáp Thụy Phúc. Diện tích: 74.609 ha. Đất nông nghiệp: 555 ha. Diện tích trồng cây: 460 ha. Dân số: 2.282 hộ gia đỡnh với 8.558 nhân khẩu. 2. Tỡnh hỡnh giáo dục của nhà trường Đặc điểm tỡnh hỡnh nhà trường: Cán bộ giáo viên và học sinh: Trường có chi bộ gồm 20 đảng viên hoạt động trên lĩnh vực giáo dục nhiều năm liên tục được công nhận là chi bộ trong sạch vững mạnh. Công đoàn nhà trường gồm toàn bộ cán bộ giáo viên thầy Lê Hồng Văn là chủ tịch công đoàn và các năm công đoàn nhà trường được công nhận hoạt động mạnh. Trường có chi đoàn gồm 20 đ/c đoàn viên bí thư chi đoàn là thầy Bùi Văn Danh, tổng phụ trách cô Bùi Thị Thu Hằng. Đội ngũ giáo viên; toàn trường có 33 cán bộ giáo viên, trong đó + Cán bộ quản lý: 2 đồng chí đều cú trỡnh độ đại học. + Cán bộ văn phũng: 3 đồng chí đều cú trỡnh độ trung cấp kế toán. + Giáo viên có 28 thầy cô trong đó: Tổ tự nhiên có 14 thầy cô gồm 7 thầy cô dạy toán, 1 giáo viên hóa học, 1 viên vật lý, 1 giỏo viờn sinh học, 2 giáo viên thể dục, 1 giáo viên tin học, 1 giáo viên dạy công nghệ, tổ trưởng cô Nguyễn Thị Minh giáo viên dạy toán, tổ phó cô Đỗ Ngọc Huyền giáo viên vật lý. Tổ xó hội có 14 thầy cô gồm 7 giáo viên dạy văn, 1 cô dạy sử, 1 cô dạy địa lý, 3 giỏo viờn dạy tiếng anh, 1 giáo viên dạy hát nhạc, 1 giáo viên dạy mỹ thuật. Năm học 2011-2012 trường có 12 lớp với 439 học sinh cụ thể như sau: + Khối 6 có 3 lớp với 119 học sinh. Lớp 6a do cô Nguyễn Thị Hương chủ nhiệm với 38 học sinh. Lớp 6b do cô Nguyễn Thị Liễu chủ nhiệm với 41 học sinh. Lớp 6c do thầy Phan Văn Đức chủ nhiệm với 40 học sinh. + Khối 7 có 3 lớp với 118 học sinh. Lớp 7a do cô Nguyễn Thị Thuyên chủ nhiệm với 40 hoc sinh. Lớp 7b do cô Bùi Thị Len chủ nhiệm với 40 hoc sinh. Lớp 7c do thầy Lê Hồng Văn chủ nhiệm với 38 học sinh. + Khối 8 có 3 lớp với 108 học sinh Lớp 8a do cô Đỗ Ngọc Huyền chủ nhiệm với 35 học sinh. Lớp 8b do cô Ngô Mai Ái chủ nhiệm với 35 học sinh. Lớp 8c do thầy Bùi Văn Danh chủ nhiệm với 38 học sinh. + Khối 9 có 3 lớp với 94 học sinh. Lớp 9a do cô Nguyễn Thị Minh chủ nhiệm với 31 học sinh. Lớp 9b do cô Nguyễn Thị Hợp chủ nhiệm với 34 học sinh. Lớp 9c do cô Trần Thị Liên chủ nhiệm với 29 học sinh. Cơ sở vật chất. Trường cú 14 phũng học trong đó có 10 phũng học (trong đó có 6 phũng cấp 4) 3 phũng bộ mụn và 1 phũng học vi tính. Vỡ chưa xây được cỏc phũng chức năng cho nên nhà trường phải lấy tạm 2 phũng học làm phũng hội họp và thư viện. Trường có hệ thống máy vi tính được nối mạng gồm 18 máy học của học sinh và 5 máy của cán bộ giáo viên. Hệ thống âm thanh phục vụ cho hoạt động ngoài giờ khá đầy đủ. * Phương hướng và nhiệm vụ chung của nhà trường - Tăng cường giáo dục chất lượng toàn diện cho học sinh - Xây dựng đội ngũ giáo viên, nhân viên có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn - Đổi mới quản lý giáo dục, tăng cường nề nếp kỷ cương, củng cố môi trường sư phạm - Thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp học tập đồng bộ việc sử dụng các thiết bị dạy học. - Triển khai có hiệu quả cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. * Khó khăn: ở địa phương còn nhiều hộ nghèo nên một phần cũng ảnh hưởng đến học tập của các em trong xã. - Cơ chế thị trường, các tệ nạn xã hội cũng xuất hiện trên địa bàn xã - Là một xã khá rộng nên chưa thực sự sâu sát với từng thôn. - Trong nhà trường, đội ngũ giáo viên không đồng đều nên gặp không ít khó khăn trong vịêc phân chuyên môn - Phòng làm việc cho giáo viên và phòng học cho học sinh còn thiếu. II. Thực trạng sử dụng phương pháp gợi mở trong giảng dạy môn mỹ thuật ở trường THCS Thuỵ Sơn, Thái Thuỵ, Thái Bình 1. Thực trạng Qua tỡm hiểu thực tế, tôi nhận thấy rằng 100% giáo viên đều cho rằng việc sử dụng phương pháp gợi mở trong giảng dạy môn mỹ thuật là rất cần thiết bởi phương pháp này giúp cho các em học sinh không bị thụ động trong học tập, chỳ ý hơn vào bài vẽ của mỡnh giúp các em thực hành bài vẽ được tốt hơn dẫn đến các em có tinh thần phấn khởi khi học sang những môn học khác. Bên cạnh đó thông qua một số tiết dự gỡơ tại trường THCS Thụy Trỡnh tụi thấy được rằng cơ sở vật chất cho dạy và học mỹ thuật của nhà trường cũn thiếu thốn và nghèo nàn, chưa có phũng học mỹ thuật riêng đồ dùng dạy học phục vụ cho việc giảng dạy lên lớp chưa đầy đủ và chưa đảm bảo tính thẩm mỹ. Trường chưa chú ý đến quản lý dạy – học mỹ thuật, ít quan tâm đến việc kiểm tra, đánh giá chất lượng, đôi khi tự ý cắt bỏ hoặc xem dạy mỹ thuật chỉ mang tính bề nổi trong các phong trào nghệ thuật, giải trí. Đối với giáo viên dạy mỹ thuật thỡ việc áp dụng những phương pháp giảng dạy vào bài giảng cũn rất hạn chế, một số phương pháp chưa được khai thác và sử dụng hết kiến thức truyền đạt tới cho học sinh. Việc sử dụng phương pháp gợi mở trong các giờ mỹ thuật của giáo viên mỹ thuật ở trường vẫn chưa được áp dụng triệt để nhất. Giỏo viờn cũn dạy kĩ thuật vẽ là chủ yếu, chưa chú ý đến mục tiêu giáo dục thẩm mĩ. Dạy mĩ thuật chưa thực sự phát huy khả năng độc lập suy nghĩ, tỡm tũi, sỏng tạo của học sinh trong trường. Để thấy rừ và chớnh xỏc hơn thực trạng sử dụng phương pháp gợi mở trong giảng dạy môn mỹ thuật ở trường THCS Thụy Sơn – Thái Thụy – Thái Bình tụi đó tìm hiểu qua học sinh và giáo viên bằng các phiếu khảo sát: Câu hỏi 1: Em thấy môn mỹ thuật là môn học như thế nào? Rất hứng thú Hứng thú Bình thường Câu hỏi 2: Trong chương trình mỹ thuật, em thích học phân môn nào nhất A. Vẽ tranh B. Vẽ trang trí C. Vẽ theo mẫu D. Thường thức mỹ thức Câu hỏi 3: Em thấy phương pháp gợi mở trong môn mỹ thuật có cần thiết đối với quá trình giảng dạy của các em không? A. Rất cần thiế B. Cần thiết C. Không cần thiết Câu hỏi 4: Các em có thấy thầy (cô) giáo thường xuyên sử dụng phương pháp vấn đáp trong bài giảng của mỡnh hay khụng? A. Có thường xuyên B. Thỉnh thoảng C. Hầu như không sử dụng Câu hỏi 5: Khi bạn sử dụng phương pháp gợi mở trong tiết dạy em thấy việc tiếp thu bài học của mình như thế nào? A. Rất tốt B. Bình thường C. Không tốt 2. Thực tế nhận thức bài học của học sinh trường THCS Thụy Sơn – Thái Thụy – Thái Bình qua phương pháp gợi mở Khi thực hiện đề tài nghiên cứu này tại trường, tôi đó cú một tiết tỡm hiểu thực tế nhận thức bài học của học sinh khi giáo viên sử dụng phương pháp vấn đáp trong bài giảng của mình. Cụ thể là tôi đó dự giờ tiết dạy “ Vẽ theo mẫu” của giáo viên mỹ thuật: Bài 27. Vẽ theo mẫu: Mẫu hai đồ vật (vẽ hỡnh – lớp 6). Khi thực hiện bài giảng ngoài những gợi mở có trong các bước tiến hành lên lớp đó quy định thỡ giỏo viờn cũn gợi mở cho học sinh một số những khái niệm để các em nắm rừ bài hơn, hiểu bài hơn: + Vẽ theo mẫu . Vẽ: phân biệt được giữa vẽ hội họa và vẽ kỹ thuật . Vẽ không đũi hỏi đúng, chính xác như vẽ kỹ thuật. Nét vẽ thẳng hay cong chỉ là tương đối, không dùng thước hay compa để vẽ mà vẽ bằng tay. Đo và ước lượng bằng mắt để tỡm ra tỉ lệ của mẫu, không tính toán chi li như vẽ kỹ thuật. . Theo : vẽ theo cỏch nhỡn, cỏch nghĩ, cỏch cảm nhận của người vẽ, không sao chép, rập khuôn, miễn sao lột tả được đặc điểm của mẫu. . Mẫu: nhỡn mẫu thực có ở trước mặt để vẽ, không vẽ tiếp (ở nhà) khi không có mẫu. Quá trình vẽ theo mẫu là quỏ trình liên tục, thể hiện ở quan sát, nhận biết, ghi nhận -> Vẽ theo mẫu là nhỡn mẫu thực để vẽ lại, mô phỏng lại theo cỏch nhỡn, cỏch cảm nhận của người vẽ, sao cho rừ đặc điểm của đối tượng. Qua tiết học vẽ theo mẫu ngày hôm đó, tôi thấy được kết quả học, cụ thể là cách thể hiện bài vẽ của học sinh trong lớp là rất tốt. Đa số các em đó vẽ được đặc điểm của mẫu, khụng cũn em nào lỳng tỳng đi vào “sao chép”, “rập khuôn” mẫu. Từ trên tôi càng thấy việc sử dụng phương pháp gợi mở trong giảng dạy mỹ thuật là cần thiết và không kém phần quan trọng. Việc sử dụng phương pháp này giúp nâng cao hiệu quả dạy - học của giáo viên và học sinh trong khi giảng dạy và học tập. Tuy nhiên, phương pháp này phải được giáo viên áp dụng và đúng lúc, đúng chỗ và phù hợp trong từng bài dạy và trong từng học sinh thỡ mới đem lại hiệu quả cao, thiết thực. CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHƯƠNG PHÁP GỢI MỞ TRONG DẠY – HỌC MÔN MỸ THUẬT Ở TRƯỜNG THCS THỤY SƠN – THÁI THỤY – THÁI BèNH I. GIẢI PHÁP Qua tìm hiểu về cơ sở lý luận, tìm hiểu thực tiễn về việc sử dụng phương pháp gợi mở tron
File đính kèm:
- detai nckh.doc