Phân tích 8 câu thơ cuối trong “Kiều ở lầu Ngưng Bích”

Qua khung tranh thứ hai, vẫn là ánh nhìn vào nước, nhưng đã gần hơn. Có lẽ nào nàng Kiều đã bắt đầu nhượng bộ trước những xa xăm của cuộc đời, nhìn gần để có thêm ít hy vọng, dù nhỏ. Ngờ đâu, cái mà nàng trông thấy còn dữ tợn hơn bội phần. Cánh hoa mỏng manh dập dìu trước ngọn nước từ trên cao đổ xuống. Thử hỏi, cánh hoa mỏng manh ấy làm sao chịu nổi sức nước tràn? Thân phận Kiều cũng vậy, quá bé nhỏ trước dòng đời. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng cho thấy sự nhạy cảm của Kiều. Cái man mác trôi của hoa thể hiện cái băn khoăn, lo lắng cho thân phận lạc loài, vô định của nàng. Kiều bây giờ cũng như bông hoa kia, không còn người thân bên cạnh, tự nàng phải bước lên những chông gai của cuộc đời.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

 

doc2 trang | Chia sẻ: dung89st | Lượt xem: 5275 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích 8 câu thơ cuối trong “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÂN TÍCH 8 CÂU THƠ CUỐI TRONG 
“KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH”
Nguyễn Du (1765 – 1820), quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một giai đoạn lịch sử có đầy những biến động. Thế nhưng, tài năng văn học của ông lại đạt đến mức tuyệt đỉnh. Ông không chỉ là một bậc thầy trong lĩnh vực tả người, tả cảnh, mà còn trong lĩnh vực tả cảnh ngụ tình hay còn gọi là tả tâm trạng của nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua 8 dòng thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. 
	Khi ở lầu xanh, Kiều bị lừa, bị làm nhục nên nàng rút dao định tự vẫn, nhưng vì có Đạm Tiên báo mộng ngăn cản nên đành thôi! Tú Bà sợ Kiều chết thì không những rắc rối mà còn “mất cả chì lẫn chài” nên tìm cách ngọt nhạt xoa dịu, rồi lập kế đưa Kiều ra ở tạm lầu Ngưng Bích bên bờ biển Lâm Tri (Truy). Mụ nói chờ có dịp sẽ tìm người đường hoàng gả cho, nhưng thực chất bày mưu gian hiểm buộc Kiều phải tiếp khách. Vị trí chơ vơ, vắng vẻ bên bờ biển là để dễ dàng thực hiện độc kế. Nhưng ngoài ý muốn đen tối của Tú Bà, chính ở nơi đây, trong cảnh cô độc chỉ có nước với trời, lại là cơ hội để cho nỗi cô đơn nghệ sĩ của nàng Kiều thăng hoa, dệt thành bài thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt tác
	 Trong 6 câu thơ đầu đó là tâm trạng buồn tủi, chán ngán, nhục nhã, vô hạn của Kiều. Trước cảnh biển trời, đêm trăng bát ngát, bẽ bàng càng thấm thía hơn!... Trong 8 câu thơ tiếp đó là nỗi nhớ về ý trung nhân, về cha mẹ của Kiều. Còn trong 8 câu thơ còn lại đó là nỗi buồn cho thân phận của Kiều:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
	Nhìn vào 8 câu thơ cuối của đoạn thơ này, có lẽ mỗi chúng ta ai cũng nhận ra cấu trúc điệp ngữ liên hoàn được đặt ở đầu những câu thơ lục. Đây ko phải là sáng tạo mới mẻ của ND mà từ lâu, trong CD của người VN đã có mô-típ “buồn trông”:
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Buồn trông con nhện giăng tơ,
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
	ND chỉ đọc qua câu ca dao nhưng ông đã biến tấu lại vào bài thơ của mình và đã tạo nên một đoạn thơ miêu tả tâm trạng nhân vật trữ tình rất sâu sắc và tinh tế. Điệp ngữ, điệp cấu truc tô đậm, nhấn mạnh nỗi buồn càng lúc càng dâng dâng lên trong lòng nàng Kiều cùng với cảnh vật càng lúc càng mênh mang, vắng vẻ và dữ dội hơn. Nhưng chủ yếu là sau mỗi ngữ “buồn trông” thì như lại nối tiếp một đợt sóng, chia suy tưởng, tâm trạng của nàng Kiều về một hướng khác, một đối tượng khác, một vấn đề khác, không giống nhau, ko lặp lại.
	Có thể chia bức tranh “buồn trông” tuyệt vời này thành 4 mảng gắn liền với 4 lần buồn trông và 4 nỗi buồn k hoàn toàn giống nhau. Như một bộ tranh tứ bình vậy!
	Nỗi buồn thứ nhất:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
	Tâm trạng buồn nhớ của Kiều giờ đi cả vào ánh mắt. Người buồn thì cảnh cũng buồn. Vẫn là cảnh đó, không gian đó, nhưng đã chất chứa phần nào nỗi lòng Kiều. Khung tranh buồn thứ nhất mở ra ngay thời điểm chiều hôm - là thời điểm quen thuộc của nghệ thuật, của những lưu luyến khó tả. Cửa bể chiều hôm gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày phản chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như niềm lưu luyến tha thiết của Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia. Cửa biển trong ánh chiều tà yếu ớt bao trùm luôn cả những con thuyền căng buồm lộng gió ngoài xa - những con thuyền chở hy vọng của nàng Kiều được một lần tự do ngoài bầu trời rộng mở, vượt khỏi cái tù túng tẻ nhạt nơi lầu son gác tía. Những cánh buồm đều ở rất xa, thoắt ẩn thoắt hiện trong ánh hoàng hôn trĩu buồn, như niềm hy vọng của nàng chỉ là những chấm nhỏ ngoài khơi xa mịt mờ, những từ thấp thoáng, xa xa càng khiến hy vọng nhạt nhòa.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Qua khung tranh thứ hai, vẫn là ánh nhìn vào nước, nhưng đã gần hơn. Có lẽ nào nàng Kiều đã bắt đầu nhượng bộ trước những xa xăm của cuộc đời, nhìn gần để có thêm ít hy vọng, dù nhỏ. Ngờ đâu, cái mà nàng trông thấy còn dữ tợn hơn bội phần. Cánh hoa mỏng manh dập dìu trước ngọn nước từ trên cao đổ xuống. Thử hỏi, cánh hoa mỏng manh ấy làm sao chịu nổi sức nước tràn? Thân phận Kiều cũng vậy, quá bé nhỏ trước dòng đời. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng cho thấy sự nhạy cảm của Kiều. Cái man mác trôi của hoa thể hiện cái băn khoăn, lo lắng cho thân phận lạc loài, vô định của nàng. Kiều bây giờ cũng như bông hoa kia, không còn người thân bên cạnh, tự nàng phải bước lên những chông gai của cuộc đời.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Rồi Kiều bắt đầu đảo mắt đến cái sắc xanh nối tiếp của trời và đất. Tuy nhiên, bãi cỏ không mang màu xanh tươi như tiết thanh minh tháng ba, từ láy rầu rầu gợi cho ta sự tàn úa đến thảm thương. Xanh trời nối tiếp xanh đất nhưng xanh nào cũng là màu xanh tàn úa, héo hắt. Màu xanh tàn héo ấy khiến xanh xanh cả đất trời. Kiều nhìn vào màu xanh mong tìm kiếm chút hy vọng nhỏ nhoi lần nữa, nhưng cũng như những lần trước, Kiều quay đi với nỗi thất vọng ngập tràn. Cảnh buồn hay vì người buồn nên cảnh mới buồn thì không biết, chỉ biết lần này, nàng Kiều đã thật sự tuyệt vọng, chẳng còn đối cảnh nào khiến nàng thấy ý muốn níu kéo của mình là đúng. Mọi thứ đều đưa nàng vào suy nghĩ dằn vặt và đau xót hơn.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Trong câu thơ, đọc lên, ta nghe có “tiếng gió” và “tiếng sóng biển” đang “ầm ầm” kêu quanh ... nàng Kiều như đang ở trong tâm trạng lo lắng, hoảng sợ tưởng như không ngồi trên đất liền nữa mà như đang ngồi giữa biển khơi, bốn phía “ầm ầm tiếng sóng”. Tiếng sóng ở đây, trong câu thơ không phải là âm thanh của tiếng sóng bình thường: sóng vỗ, sóng xô, sóng dào dạt, mà “tiếng sóng kêu” ầm ầm tứ phía, ngầm dự báo cơn sóng gió, bão táo của cuộc đời thật dữ dội sẽ ập đến với Thúy Kiều, với đoạn trường mười lăm năm lưu lạc đang chờ đợi nàng.
Tám dòng thơ cuối này tạo nên bốn khung tranh tâm trạng của nàng Kiều. Mỗi khung tranh là một trạng thái tâm lý khác nhau. Điệp từ buồn trông diễn tả cái tăng tiến đến choáng ngợp của từng cung bậc xúc cảm trong Kiều. Nỗi buồn tủi ban đầu đã dồn nghẹn trong lòng thành niềm lo sợ về thân phận lạc loài, cái héo hắt, tuyệt vọng trước thực tại, trào ra thành nỗi hoảng sợ tột độ, hoàn toàn mất phương hướng. Yếu tố không nhỏ giúp cho sự tăng tiến về cảm xúc trở nên dữ dội mà lại sít sao, tự nhiên vô cùng chính là hệ thống từ láy tầng tầng lớp lớp, khiến mấy dòng thơ từ tha thiết trở thành mạnh mẽ, từ mạnh mẽ lại trở về tha thiết. Có thể nói, đại thi hào Nguyễn Du là một nhà bác học của ngôn từ và cảm xúc. Những từ ngữ ông sử dụng luôn uyên thâm nhưng vững nghĩa và dễ hiểu. Nghệ thuật dụng từ trong tám câu cuối của đoạn trích này đã góp phần đưa nó thành thiên sầu khúc. Ngoài ra, cái tài của cụ Nguyễn là vừa để cho Kiều nhìn cảnh bằng con mắt chủ quan của tâm trạng, lại vừa ngầm thể hiện sự xót thương thân phận người trong cảnh từ địa vị của một nhà nhân đạo chủ nghĩa, làm cho dòng thơ có sức gợi cảm mãnh liệt, chinh phục bao tầng lớp độc giả.
Đoạn thơ này có giá trị nhân bản sâu sắc. Nó gợi lên trong lòng mỗi chúng ta những xót thương về con người tài sắc bạc mệnh. Một thái độ yêu thương, một tấm lòng nhân hậu, cảm thông, chia sẻ của nhà thơ đối với nỗi đau của Thuý Kiều đã để lại ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc qua hàng thế kỷ nay. Như Tố Hữu đã viết: “Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều”.

File đính kèm:

  • docPHAN_TICH_8_CAU_THO_CUOI_TRONG_Kieu_o_lau_NB_s_To_lam_20150725_032153.doc