Ôn tập truyện hiện đại môn Ngữ văn Lớp 9

Đề 1 : Cảm nhận về nhân vật ông Sáu trong đoạn trích « Chiếc lược ngà » của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.

 Gợi ý về dàn ý:

 * Mở bài :Giới thiệu tác giả, tác phẩm, cảm nhận chung về nhân vật ông Sáu – một người lính trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ với tình cha con sâu nặng trong hoàn cảnh ẻo le của chiến tranh.

 * Thân bài :

 - Tóm tắt qua hoàn cảnh của ông Sáu : Ông Sáu là một nông dân Nam Bộ. Ông tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ông ra đi đánh giặc năm 1946 mãi đến năm 1954 ông mới được về thăm quê vài ngày. Ngày ông đi, đứa con gái duy nhất của ông mới tròn một tuổi, sau 8 năm xa cách, ông mới được gặp lại con.

- Tình yêu con tha thiết thể hiện qua tâm trạng, hành động của ông Sáu khi ông sắp được về thăm nhà:

+ Đến lúc được về, tình cảm dành cho con gần như không thể kìm nén: “nôn nao trong người”. Khi gần đến nhà, sự nôn nóng muốn gặp con càng bộc lộ rõ: “không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên.” Diễn biến của hành động, lời nói và cử chỉ đã nói lên nỗi nhớ con tha thiết, tình yêu thương con mãnh liệt của ông Sáu.

- Tình yêu con tha thiết được thể hiện trong những ngày ông Sáu ở nhà.

+ Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy đứa con. Ông vừa bước, vừa khom người đưa tay chờ đón con”, có lẽ ông rất vui, rất xúc động và hạnh phúc, tin rằng đứa con sẽ đến với mình. Nhưng bé Thu đã từ chối, chạy và kêu thét lên gọi má. Ông Sáu vô cùng buồn bã, thất vọng, đau đớn.

+ Trong hai ngày phép ngắn ngủi, ông Sáu không đi đâu chỉ quâu quẩn ở nhà với con, chăm sóc con nhưng bé Thu không nhận cha khiến ông vô cùng buồn. .nhưng ông sẵn lòng tha thứ cho con. Tình yêu thương của người cha dành cho con trở nên bất lực khi ông Sáu đánh con bé một cái vào mông vì nó đã hất miếng trứng cá mà ông gắp ra khỏi bát cơm làm cơm văng tung toé.Bom đạn giặc đã làm thay đổi hình hài ông. Vết thẹo dài trên má phải - vết thương của chiến tranh – đã làm cho đứa con gái thương yêu, bé bỏng không nhận ra bóng dáng người cha nữa !

- Cho đến lúc chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào một cuộc chiến đấu mới, ông mới được một khoảnh khắc hạnh phúc khi đứa con gái ngây thơ chợt nhận ra ba mình và kêu thét lên: “Ba . ba!”. Trước cử chỉ của bé Thu, “anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con”. Đó là giọt nước mắt sung sướng, hạnh phúc của một người cha cảm nhận được tình ruột thịt từ con mình.Và ông Sáu đã ra đi với nỗi thương nhớ vợ con không thể nào kể xiết.

 - Tình yêu thương của ông Sáu đối với con trong những ngày ông ở khu căn cứ:

 + Trước hết là nỗi nhớ thương xen lẫn sự day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày vì ông đã đánh con khi nóng giận. Ông Sáu đúng là một người cha hiền lành, nhân hậu, biết nâng niu tình cảm cha con. Mang lời hẹn ước của con gái ra đi : “Ba về, ba mua cho con một cây lược ngà nghe ba!” đã thúc đẩy ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà dành cho con. Ông quả là một người cha chiều con và luôn biết giữ lời hứa với con, đó là biểu hiện tình cảm trong sáng và rất sâu nặng

 + Kiếm được khúc ngà, anh vui sướng như đứa trẻ được quà, rồi để hết tâm trí, công sức vào việc làm cây lược, cưa răng, chuốt bóng, khắc chữ. tỉ mỉ, cần mẫn, công phu. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo một tác phẩm duy nhất trong cuộc đời. Cho nên nó không chỉ là chiếc lược xinh xắn và quý giá mà đó là chiếc lược kết tụ tất cả tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, sâu xa, đơn sơ mà kì diệu.

- Nhưng tình cảnh thật đáng thương, anh không kịp đưa cây lược ngà đến tận tay cho con, người cha ấy đã hi sinh trong một trận càn. Trước khi vĩnh biệt con, ông Sáu vẫn nhớ chiếc lược, đã chuyển nó cho người bạn như một cử chỉ chuyển giao sự sống, một sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân: ước nguyện của tình phụ tử. Điều đó đúng như ông Ba nói: “chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Đó là điều trăng trối không lời, nó rõ ràng và thiêng liêng hơn cả một lời di chúc.

- Đánh giá nhân vật : Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong chuyện “Chiếc lược ngà” là hình ảnh sâu nặng về tình cha – con. Ông Sáu quả là một người cha chịu nhiều thiệt thòi nhưng vô cùng độ lượng và tận tuỵ vì tình yêu thương con, một người cha để bé Thu suốt đời yêu quý và tự hào. Chiếc lược ngà với dòng chữ mãi mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch đầy máu và nước mắt đã để lại nhiều ám ảnh bi thương trong lòng ta. Ông Sáu là người lính của một thế hệ anh hùng mở đường đi trước đã nếm trải nhiều thử thách, gian khổ và hi sinh.

- Đánh giá, khái quát nghệ thuật xây dựng nhân vật:

+ Nhà văn đã sáng tạo được một tình huống nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn, tạo kịch tích cho câu chuyện, qua đó làm bộc lộ tính cách, tâm lý nhân vật.

+ Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, sinh động.

+ Lựa chọn ngôi kể chuyện trong vai người bạn thân thiết của ông Sáu, câu chuyện được kể trở nên thẩm đẫm cảm xúc, tình cảm đồng cảm, thấu hiểu của những người đồng chí, đồng đội.

+ Tình cảm cha con sâu sắc của cha con ông Sáu gắn với tình yêu quê hương, đất nước. Tác phẩm giúp ta hiểu thêm về cuộc sống, tình cảm của người dân Nam Bộ trong chiến tranh chống Mỹ.

* Kết bài : Khái quát lại chủ đề tư tưởng , nêu ẩn tượng về nhân vật .

 

docx22 trang | Chia sẻ: Bình Đặng | Ngày: 09/03/2024 | Lượt xem: 74 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Ôn tập truyện hiện đại môn Ngữ văn Lớp 9, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột sự hi sinh. 
- Với anh Sáu, chị Sáu cũng như thế, với người mẹ, người vợ, tình cảm gia đình cách chia đằng đẵng, rõ ràng đó là sự hi sinh đặc biệt to lớn, nhất là người phụ nữ. Chị Sáu thiếu thốn tình cảm người chồng, lại phải thay chồng lo việc nhà, nuôi dạy con cái trưởng thành giữa những vất vả nhọc nhằn của cuộc sống thời chiến. (Liên hệ với : Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ  -> sức nặng biểu cảm)
- Rõ ràng là chiến tranh kéo dài « lớp cha trước, lớp con sau » đã bắt con người phải hi sinh những tình cảm riêng tư kể cả tình cảm gia đình. Đó là một sự hi sinh thầm lặng mà cuộc kc của chúng ta đi đến đích.
- Những tình cảm của gia đình, dòng họ thì thường rất bền vững, đó là niềm an ủi động viên lớn, sâu sắc nhất giúp con người vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn.
+ Với chị Sáu, vượt rừng thăm chồng, bao nhiêu trắc trở, một thân một mình. Càng thương nhớ, thuỷ chung với chồng lại càng gắng gỏi hoàn thành công việc gia đình = >Đó cũng là cuộc sống của người phụ nữ ở hậu phương trong thời chiến. 
+ Với anh Sáu, chính tình cảm gia đình, tình cha con, vợ chồng đã thực sự là ngọn lửa sưởi ấm giúp mọi người chiến sĩ thêm niềm tin, sức mạnh, là nguồn động lực lớn lao nhất. Phải chăng khi ông Sáu chiến đấu, hi sinh chính là để bảo vệ quê hương, gia đình. Bà mẹ Tà Ôi mơ cho con lớn lên khoẻ mạnh, làm công dân của đất nước tự do chính vì thế mà mẹ không quản nhọc nhằn Ông Sáu, ông Ba là những người như vậy.
 BÀI 2 : LÀNG
A. Kiến thức cơ bản
 1.Tác giả 
 - Kim Lân tên là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920 quê ở làng Phù Lưu, huyện Từ Sơn, tỉnh Hà Bắc.
 - Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn.
 - Kim Lân am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân. Truyện của ông hầu như chỉ viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân
=>Chính hai đặc điểm trên đã tạo nên thành công của tác giả trong truyện “Làng”.
2. Hoàn cảnh sáng tác: 
- Truyện “Làng” được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp
và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.
 3.Tình huống truyện : Nhân vật ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc
4. Tóm tắt 
Trong kháng chiến, Ông Hai - người làng chợ Dầu, buộc phải rời làng. Sống ở nơi tản cư, lòng ông luôn day dứt nhớ về quê hương. Ngày nào ông cũng ra phòng thông tin vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc tin rồi nghe lỏm chẳng sót một câu nào về tin tức của làng. Bao nhiêu là tin hay về những chiến thắng của làng ... ruột gan ông lão cứ múa cả lên, trong đầu bao nhiêu ý nghĩ vui thích.
Tại quán nước đó, ông Hai nghe tin làng Dầu làm việt gian theo giặc, ông rất khổ tâm và xấu hổ. Về nhà ông nằm vật ra giường nhìn lũ con, nước mắt cứ trào ra. Lòng ông đau xót và nhục nhã khôn cùng. Ông không dám đi đâu, chỉ ru rú ở nhà. Nghe bất cứ ai nói chuyện gì, ông cũng nơm nớp lo sợ, sợ rằng người ta nói chuyện ấy Bà chủ nhà đã đuổi khéo vợ chồng con cái nhà ông. Ông Hai lâm vào hoàn cảnh bế tắc: không thể bỏ về làng vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, cũng không thể đi đâu khác vì không đâu người ta chứa người làng chợ Dầu. Ông cảm thấy nhục nhã xấu hổ, chỉ biết tâm sự với đứa con về nỗi oan ức của mình.
 Chỉ khi tin này được cải chính, ông mới vui vẻ và phấn chấn, ông cứ múa cả hai tay lên mà đi khoe với mọi người: Nhà ông bị giặc đốt, làng ông bị giặc phá. Và ông lại tiếp tục sang nhà bác Thứ để khoe về cái làng của mình.
*.Truyện “Làng” có những đặc điểm cần lưu ý sau: 
 - Truyện “Làng” khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kì kháng chiến: tình cảm quê hương đất nước. Đây là một tình cảm mang tính cộng đồng. Nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lý chung ấy trong sự thể hiện cụ thể, sinh động ở một con người, trở thành một nét tâm lý sâu sắc ở nhân vật ông Hai, vì thế nó là tình cảm chung mà lại mang rõ màu sắc riêng cá nhân, in rõ cá tính của nhân vật.
- Truyện thuộc loại có cốt truyện tâm lý, không xây dựng trên các biến cố, sự kiện bên ngoài mà chủ trọng đến các tình huống bên trong nội tâm nhân vật, miêu tả các diễn biến tâm lý, từ đó làm nổi rõ tính cách nhân vật và chủ đề tác phẩm. 
- Những biện pháp nghệ thuật chính để miêu tả nhân vật ông Hai - nhân vật chính của truyện: 
+ Miêu tả nội tâm
+ Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại
- Văn bản “làng” đã kết hợp các phương thức biểu đạt: tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm. Tự sự là chính vì câu chuyện được triển khai theo hệ thống các sự việc.
- Truyện được kể theo ngôi thứ ba. Nó đảm bảo tính khách quan của những cái được kể, gợi cảm giác chân thực cho người đọc.
- Tình huống cơ bản của truyện là khi ở nơi tản cư lúc nào cũng da diết nhớ về làng và tự hào về nó thì bỗng nghe được tin làng mình đã lập tề theo giặc. Chính tình huống ấy đã cho thấy lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến đã bao trùm và chi phối tình cảm quê hương ở ông Hai, đồng thời làm bộc lộ sâu sắc và cảm động tình yêu làng, yêu nước ở ông. 
5. Chủ đề
 	Ca ngợi tình yêu làng, yêu nước tinh thần kháng chiến của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
II. LUYỆN CÁC DẠNG ĐỀ
 Dạng đề 2 đến 3 điểm: 
 Đề 1: 
 Viết một đoạn văn ngắn thuật lại tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc.
 1. Mở đoạn
- Ông Hai là người tha thiết yêu làng quê, luôn tự hào về làng quê của mình 
- Chính ông Hai là người nghe được tin làng ông theo giặc.
2. Thân đoạn 
- Ông Hai bàng hoàng, sững sờ: “Cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da măt tê rân rân...” Một lúc lâu sau ông mới cố chấn tĩnh lại, ông vẫn còn chưa tin. nhưng khi nghe những người tản cư khẳng định chắc chắn ông đành không thể không tin. 
- Ông thấy xấu hổ “đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng” “cúi gằm mặt xuống mà đi”
- Về đến nhà, ông “nằm vật ra giường”, “nhìn lũ con, tủi thân nước mắt ông cứ tràn ra”.
 - Không khí nặng nề trùm lên gia đình ông Hai. ông gắt gỏng cả với vợ, ông “ trằn trọc không sao ngủ được”
- Ông Hai không dám ra khỏi nhà. “Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy” 
 3. Kết đoạn
 - Cái tin làng theo Tây ám ảnh ông nặng nề đến mức trở thành nỗi sợ hãi thường xuyên, động cái gì cũng làm ông đau đớn, xấu hổ.
Dạng đề 2 đến 3 điểm:
Đề 1: Em hiểu như thế nào về nhan đề truyện ngắn: Làng của Kim Lân?
- Kim lân đặt tên “Làng” mà không phải là “Làng Chợ Dầu” vì nếu thế thì vấn đề tác giả đề cập tới chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp của một làng cụ thể. Đặt tên “Làng” giúp tác giả khai thác một tình cảm bao trùm, phổ biến trong con người thời kì kháng chiến chống Pháp: Tình cảm với quê hương, với đất nước. Làng ở đây cũng chính là cái làng Chợ Dầu mà ông Hai yêu như máu thịt của mình, nơi ấy với ông là niềm tin, là tình yêu và niềm tự hào vô bờ bến là quê hương đất nước thu nhỏ.
- Nhan đề Làng gợi hình ảnh nông thôn và người nông dân Việt Nam, đây là mảng sáng tác thành công nhất của Kim Lân. Tên gọi tác phẩm góp phần gợi mở chủ đề của thiên truyện: Ngợi ca tình cảm yêu quê hương, đất nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân Việt Nam thời kì chống Pháp.Vì vậy, nhan đề tác phẩm rất hay và giàu ý nghĩa.
3. Câu hỏi bài tập dạng vận dụng thấp: ( 30 phút)
Dạng đề 2 đến 3 điểm: 
 Đề 1: Viết đoạn văn phân tích ý nghĩa tình huống truyện trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân.
Gợi ý đáp án:
- Trong truyện ngắn “Làng”, Kim Lân đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay cấn, bất ngờ, thử thách.
 - Tình huống ấy là cái tin làng chợ Dầu theo giặc, mà chính ông nghe được từ miệng những người mới tản cư dưới xuôi lên.
- Ông Hai trong truyện là một người rất yêu cái làng Chợ Dầu của mình và luôn tự hào về nó. Phải đi tản cư xa làng, lúc nào ông cũng nhớ làng, nói chuyện với ai cũng khoe làng mình. Ấy thế mà chính ông lại phải nghe cái tin từ những người vừa tản cư lên, rằng làng mình đã theo Tây. Tình huống bất ngờ ấy đã khiến ông đau xót, tủi hổ, day dứt và giằng xé giữa tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước, mà tình cảm nào cũng thiết tha, mạnh mẽ. 
- Đặt nhân vật vào tình huống ấy, tác giả đã làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước ở nhân vật, cho thấy lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến đã chi phối và thống nhất mọi tình cảm khác trong con người Việt Nam thời kì kháng chiến.
3. Câu hỏi bài tập dạng vận dụng cao: 
Dạng đề 5 đến 7 điểm 
 Đề 1:
 Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện “Làng” của nhà văn Kim Lân. 
 Dàn bài: 
 Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu nhân vật
(Nêu những nét chính về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm và những nét khái quát về nhân vật ông Hai).
. Mở bài 
- Kim Lân là nhà văn am hiểu cuộc sống nông thôn và người dân Miền Bắc. Ông có sở trường viết truyện ngắn và truyện của ông thường viết về đề tài nông dân. Truyện ngắn “Làng”là tác phẩm tiêu biểu của ông được sáng tác trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng nổ trên quy mô toàn quốc. Đây là một tác phẩm xuất sắc thể hiện thành công hình ảnh người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến mà tình yêu làng quê đã hoà nhập tròng lòng yêu nước và tinh thần của người dân kháng chiến. Nhân vật ông Hai trong truyện có những nét tình cảm cao đẹp và đáng quý đó.
B .Thân bài:
Luận điểm 1 : Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi đi tản cư.
 - Cũng như bao con người Việt Nam khác ông Hai cũng có một quê hương để yêu thương, gắn bó. Làng chợ Dầu luôn là niềm tự hào, kiêu hãnh của ông. Kháng chiến bùng nổ, người dân phải dời làng đi sơ tán, ông Hai cũng theo dòng người ấy sơ tán đến một miền quê xa xôi, hẻo lánh. Ông Hai thực sự buồn khi phải xa làng. Ở nơi tản cư, lòng ông đau đáu nhớ quê, cứ “ nghĩ về những ngày làm việc cùng anh em”, ông nhớ làng quá. 
- Ông Hai luôn khoe và tự hào về cái làng Dầu không chỉ vì nó đẹp mà còn bởi nó tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc. 
- Ông luôn tìm cách nghe tin tức về kháng chiến “chẳng sót một câu nào”. Nghe được nhiều tin hay , những tin chiến thắng của quân ta, ruột gan ông cứ múa cả lên, náo nức, bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc. 
Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc: (Nhưng khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc thì bao nhiêu tình cảm tốt đẹp ấy trong ông Hai bỗng nhiên biến thành những nỗi lo âu, dằn vặt)
 - Khi nghe tin quá đột ngột, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy”. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay cũng đã lại quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một nửa. 
 - Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Ông tìm cách lảng tránh những lời bàn tán và cúi gằm mặt xuống ra về. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”, về đến nhà ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Bao nhiêu câu hỏi dồn về xoắn xuýt, bủa vây làm tâm trạng ông rối bời trong cơn đau đớn, hụt hẫng đến mê dại, dữ dằn và gay gắt.. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy. 
- Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ây”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam –nhông là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”
- Nhưng chính lúc này, tình cảm đẹp trong con người ông Hai lại càng được bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Những đau đớn, dằn vặt, sự hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào một tình huống phải lựa chọn. Quê hương và Tổ Quốc, bên nào nặng hơn? Quê hương đáng yêu, đang tự hào... Nhưng giờ đây.... dường như mới chỉ nghĩ tới đó, lòng ông Hai đã nghẹn đắng lại. Tình yêu quê hương và tình yêu tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông. Một ý nghĩ tiêu cực thoáng qua trong đầu: Hay là quay về làng. Nhưng rồi ông cảm thấy “rợn cả người”. Ông đã từng nhớ làng da diết, từng ao ước được trở về làng. Nhưng “vừa chớm nghĩ, lập tức ông lão phản đối ngay” bởi vì “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cuối cùng ông đã quyết định: “không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy,tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu, cũng không thể mạnh hơn tình yêu đất nước. 
- Chuẩn mực cho tình yêu và niềm tự hào về quê hương, đối với ông Hai lúc bấy giờ là cuộc kháng chiến. Tuy đau xót tưởng chừng bế tắc nhưng trong cõi thẳm sâu của tấm lòng, người nông dân ấy vẫn hướng về kháng chiến, vẫn tin ở những điều tốt đẹp, cố giữ cho tâm hồn không vẩn đục, để đón đợi một điều gì đỡ đau đớn, tuyệt vọng hơn. 
+ Khi tâm sự với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ, nghe con nói: “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”, nước mắt ông Hai cứ giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má, giọng ông như nghẹn lại: “ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?”. Phải chăng, trong tâm hồn người nông dân chất phác ấy vẫn không phút nào nguôi ngoai nỗi nhớ quê hương, yêu quê hương và nỗi đau đớn khi nghe tin quê hương rời xa công việc chiến đấu chung của đất nước bấy giờ? Tâm sự với đứa con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ Dầu”. Đồng thời ông nhắc con- cũng là tự nhắc mình “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”. Tấm lòng thuỷ chung với kháng chiến, với cách mạng thật sâu nặng, bền vững và thiêng liêng: “Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ đám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ đám đơn sai”. 
Luận điểm 3: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng kháng chiến (Niềm vui của ông Hai khi tin đồn được cải chính.
- Đến khi biết đích xác làng Dầu yêu quý của ông không phải là làng Việt gian, nỗi vui mừng của ông Hai thật là vô bờ bến: “Ông cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người”, mặt ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Đối với người nông dân, căn nhà là cơ nghiệp của cả một cuộc đời, vậy mà ông sung sướng hể hả loan báo cho mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự của mình. Đó là nỗi lòng sung sướng trào ra hồn nhiên như không thể kìm nén được của người dân quê khi được biết làng mình là làng yêu nước dẫu cho nhà mình bị giặc đốt. Tình yêu làng của ông Hai thật là sâu sắc và cảm động.
- So với lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao trước cách mạng tháng Tám, rõ ràng ta thấy ông Hai có những điểm tiến bộ vượt bậc trong nhận thức, tâm hồn, tình cảm và tính cách. Đó chính là nhờ vào đường lối giác ngộ cách mạng của Đảng, Bác Hồ mà học có được. Lão Hạc và ông Hai có những điểm tính cách khác nhau nhưng họ vẫn có những phẩm chất của những người nông dân giống nhau, đều hiền lành, chất phác, lương thiện. Khi cách mạng tháng Tám thành công đã đem đến sự đổi đời cho mỗi người nông dân. Từ một thân phận nô lệ phụ thuộc họ trở thành một người tự do làm chủ cuộc đời, làm chủ đất nước. Từ đó đã củng cố và làm nền tảng vững chắc cho tình yêu quê hương, đất nước, trở thành một tình cảm vững bền, thiêng liêng sâu nặng, nồng cháy. => Trong hoàn cảnh toàn dân đang hướng tới cuộc kháng chiến chống pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, ông Hai đã biết đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu cá nhân của mình với làng chợ Dầu, ông dành tất cả cho cách mạng. Đó chính là nét đẹp trong con người ông Hai nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.
- Văn hào I li a, E ren bua có nói: ” Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu tổ quốc. Ông Hai đúng là một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn bó với làng. Lòng yêu làng của ông chính là cội nguồn của lòng yêu nước.
Luận điểm 4: . Nghệ thuật xây dựng nhân vật ông Hai
- Nhà văn Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng nhân vật ông Hai, một lão nông cần cù, chất phác, yêu mến, gắn bó với làng quê như máu thịt.
+ Nhà văn đã chọn được một tình huống khá độc đáo là sự thử thách bên trong bộc lộ chiều sâu tâm trạng. 
+ Tâm lý nhân vật được nhà văn miêu tả cụ thể, gợi cảm qua các diễn biến nội tâm, qua các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt là nhà văn đã diễn tả đúng và gây được ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật. 
+ Các hình thức trần thuật (đối thoại, độc thoại.) 
C. Kết bài (sgk)
- Sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật ông Hai.
- Thành công của nhà văn khi xây dựng nhân vật ông Hai.
VD:
 Qua truyện ngắn “Làng”, tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng một người nông dân yêu làng, yêu nước hồn nhiên chất phác nhưng xúc động. Hình tượng nhân vật ông Hai vừa phản ánh chân thực những nếp cảm, nếp nghĩ của người nông dân Việt Nam trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, vừa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với nhiều thế hệ bạn đọc. Qua truyện ngắn này, ta có thể hiểu được một cách sâu sắc thêm về hình ảnh những người dân kháng chiến Việt Nam với tình yêu quê hương đất nước.
Đề 2: Truyện ngắn “Làng” đã thể hiện được điều mới mẻ (????) và lời nhắn nhủ của nhà văn Kim Lân trên cơ sở mượn ở thực tại (???). Hãy làm rõ “điều mới mẻ” trong truyện và “lời nhắn nhủ” của nhà văn. ( sử dụng cho HS khá, giỏi) (Nên chọn lại câu dẫn)
 Dàn bài: 
1. Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu nhân vật
(Nêu những nét chính về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm và vấn đề nghị luận).
Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, am hiểu về đời sống nông dân và nông thôn. 
Truyện ngắn “Làng” được in lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.
Một trong những yếu tố tạo nên thành công của truyện ngắn “ Làng” là đã thể hiện được điều mới mẻ ??? và lời nhắn nhủ??? của nhà văn Kim Lân trên cơ sở mượn ở thực tại
2. Thân bài : Chứng minh nhận định
* Điều mới mẻ:
1. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp mới trong tâm hồn người nông dân sau cách mạng T/8 : tình yêu làng quê hòa quyện với tình yêu đất nước và tình thần kháng chiến.Tình cảm ấy được nhà văn gửi gắm qua hình tượng ông Hai 
+ Phân tích nhân vật ông Hai
a. Ông Hai có tình yêu làng sâu sắc, đặc biệt với làng chợ Dầu, nơi chôn nhau cắt rốn của ông.
Kháng chiến chống Pháp nổ ra:
+ Ông Hai muốn trở lại làng để chống giặc nhưng vì hoàn cảnh gia đình phải tản cư, ông luôn day dứt nhớ làng.
+ Tự hào về làng, ông tự hào về phong trào cách mạng, tinh thần kháng chiến sôi nổi của làng.
b.Tình yêu làng của ông Hai hòa nhập thống nhất với lòng yêu nước, yêu kháng chiến, cách mạng.
+ Nghe tin làng chợ Dầu theo giặc Pháp ông đau đớn nhục nhã, “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.
+ Nghe tin cải chính làng không theo giặc, ông Hai vui sướng tự hào nên dù nhà ông bị giặc đốt ông không buồn, không tiếc, xem đó là bằng chứng về lòng trung thành của ông đối với cách mạng.
 (Có thể so sánh với hình tượng người nông dân trước CM/8-Lão Hạc)
2. Điều mới mẻ trong nghệ thuật xây dựng tình huống tâm lý, miêu tả sinh động diễn biến tâm trạng, ngôn ngữ của nhân vật quần chúng. Miêu tả nổi bật tâm trạng tính cách nhân vật qua đối thoại, độc thoại, đấu tranh nội tâm, ngôn ngữ, thái độ, cử chỉ, suy nghĩ hành động.
* Lời nhắn nhủ (đây cũng là chủ đề tp) : Tình yêu làng vốn là tình cảm truyền thống của người nông dânVN. Nhưng chỉ ở người nông dân sau cách mạng tháng 8, tình yêu làng mới hòa quyện sâu sắc với tình yêu đất nước, niềm tin lãnh tụ và tinh thần ủng hộ kháng chiến.
Kết bài: 
- Khái quát đặc sắc nghệ thuật và nội dung tác phẩm.
- Khẳng định ý kiến nhận định. 
Đề 3: Dựa vào truyện ngắn “Làng” của Kim Lân Phân, anh/chị hãy tích diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc. 
A. Yêu cầu về kĩ năng:
Học sinh biết cách làm bài nghị luận về môt tác phẩm, hoặc đoạn trích, có bố cục rõ ràng, chặt chẽ, hành văn trôi chảy, mạch lạc, có cảm xúc, chữ viết không mắc lỗi chính tả, chuẩn ngữ pháp.
B. Yêu cầu về kiến thức: HS cần đạt được các ý cơ bản sau:
MB: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích,vấn đề NL
- Kim Lân là nhà văn chuyên viết về truyện ngắn. Ông viết văn từ trước cách mạng tháng Tám. Là người có vốn

File đính kèm:

  • docxon_tap_truyen_hien_dai_mon_ngu_van_lop_9.docx