Modul 25 - Viết sáng kiến kinh nghiệm trong nhà trường THPT
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT SKKN:
DẠY HỌC VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI QUA THUỐC VÀ TÔI YÊU EM
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
1.1 Nước ta đang trong giai đoạn hội nhập và phát triển vì thế cần có sự phát triển đồng bộ, của tất cả các hình thái ý thức xã hội, các nhân tố khác nhau trong đó có giáo dục. Quan điểm giáo dục của Việt Nam là hướng đến sự toàn diện, không chỉ cung cấp tri thức mà quan trọng hơn cả là góp phần hoàn thiện nhân cách của con người- những Con Người thực thụ, để từ đó mỗi người có thể biết cách làm việc, biết cách chung sống, biết cách khẳng định mình. Môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông cũng không nằm ngoài hướng đi ấy bằng cách cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về văn học Việt Nam và văn học nước ngoài.
những sáng kiến đã được thử nghiệm trong thực tế và đã thu được thành công nhất định, thể hiện sự cải tiến trong phương pháp hoạt động cho kết quả cao đáp ứng được nhu cầu của thực tế, công sức của những người tham gia hoạt động. - Đặc điểm: +Có nét mới; +Đã được áp dụng trong thực tế; +Do chính người viết thực hiện. 2. Những yêu cầu cơ bản đối với một sáng kiến kinh nghiệm Khi viết một sáng kiến kinh nghiệm, tác giả cần làm rõ tính mục đích, tính thực tiễn, tính sáng tạo khoa học và khả năng vận dụng, mở rộng SKKN đó như thế nào? + Tính mục đích: - Đề tài đã giải quyết được những mâu thuẫn, những khó khăn gì có tính chất thời sự trong công tác giảng dạy, giáo dục học sinh, trong công tác phụ trách Đội TNTP.Hồ Chí Minh? - Tác giả viết SKKN nhằm mục đích gì? (nâng cao nghiệp vụ công tác của bản thân, để trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, để tham gia nghiên cứu khoa học) + Tính thực tiễn : - Tác giả trình bày được những sự kiện đã diễn ra trong thực tiễn công tác giảng dạy, giáo dục của mình, ở nơi mình công tác. - Những kết luận được rút ra trong đề tài phải là sự khái quát hóa từ những sự thực phong phú, những họat động cụ thể đã tiến hành ( cần tránh việc sao chép sách vở mang tính lý thuyết đơn thuần, thiếu tính thực tiễn ) + Tính sáng tạo khoa học: - Trình bày được cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn làm chỗ dựa cho việc giải quyết vấn đề đã nêu ra trong đề tài. - Trình bày một cách rõ ràng,mạch lạc các bước tiến hành trong SKKN - Các phương pháp tiến hành mới mẻ, độc đáo. - Dẫn chứng các tư liệu, số liệu và kết quả chính xác làm nổi bật tác dụng , hiệu quả của SKKN đã áp dụng. Tính khoa học của một đề tài SKKN được thể hiện cả trong nội dung lẫn hình thức trình bày đề tài cho nên khi viết SKKN, tác giả cần chú ý cả 2 điểm này. + Khả năng vận dụng và mở rộng SKKN: - Trình bày, làm rõ hiệu quả khi áp dụng SKKN (có dẫn chứng các kết quả,các số liệu để so sánh hiệu quả của cách làm mới so với cách làm cũ) - Chỉ ra được những điều kiện căn bản, những bài học kinh nghiệm để áp dụng có hiệu quả SKKN, đồng thời phân tích cho thấy triển vọng trong việc vận dụng và phát triển SKKN đã trình bày (Đề tài có thể vận dụng trong phạm vi nào? Có thể mở rộng, phát triển đề tài như thế nào?) Để đảm bảo được những yêu cầu trên, đòi hỏi người viết SKKN : + Phải có thực tế (đã gặp những mâu thuẫn, khó khăn cụ thể trong thực tiễn công tác giảng dạy, giáo dục học sinh, trong việc giải quyết những vấn đề thực tiễn của công tác Đội TNTP ở địa phương, cơ sở nới mình công tác) + Phải có lý luận làm cơ sở cho việc tìm tòi biện pháp giải quyết vấn đề. + Có phương pháp, biết trình bày SKKN khoa học, rõ ràng, mạch lạc: +Nắm vững cấu trúc của một đề tài, biết cân nhắc, chọn lọc đặt tên các đề mục phù hợp nội dung,thể hiện tính logic của đề tài + Nắm vững các phương pháp nghiên cứu khoa học.Khi xác định một phương pháp nào đó được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài, tác giả cần phải xác định được các yếu tố cơ bản: Mục tiêu của việc thực hiện phương pháp?Phương pháp được áp dụng với đối tượng nào?Nội dung thông tin cần thu được qua phương pháp đó? Những biện pháp cụ thể để tiến hành phương pháp nghiên cứu có hiệu quả? + Thu thập đầy đủ các tư liệu, số liệu liên quan đến kinh nghiệm trình bày. Các số liệu được chọn lọc và trình bày trong những bảng thống kê thích hợp, có tác dụng làm nổi bật vấn đề mà tác giả muốn chứng minh, dẫn chứng. II. Cách xác đinh đề tài, nội dung và phương pháp viết SKKN 1. Cách xác định đề tài: - Đề tài cần hướng vào những vấn đề cấp thiết, có tác dụng thúc đẩy, phát triển sự nghiệp GD, QLGD, đề tài phải có tính cấp thiết. - Vấn đề chọn không nên quá rộng hoặc chung chung mà cần tập trung vào vấn đề cụ thể, nổi bật nhất trong thực tế công tác. - Yêu cầu cơ bản của tên đề tài: + Ngắn gọn về ngôn ngữ. + Phản ánh rõ bản chất của qá trình biến đổi từ lúc chưa áp dụng SK - đạt được kết quả. + Rõ giới hạn của việc nghiên cứu. 2. Cách xây dựng nội dung đề tài: Bước 1: Trang bị lí luận - Là việc thu thập, tham khỏa các tài liệu liên quan đến đề tài như những báo cáo, SKKN, cái tài liệu lí luận, phương pháp luận... Phục vụ cho vến đề đã chọn. - Trang bị lí luận chính là sự học tập, lĩnh hội KN của bản thân tác giả để viểt SKKN. - Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các bài viết trước. Bước 2: Thu thập dữ liệu: - Thu thập tư liệu thực tế từ khi bắt đầu đến kết thúc quá trình áp dụng SK để làm sáng tỏ quá trình biến đổi hoạt động GD. - Những số liệu, tư liệu về tình hình thực tế khi chưa áp dụng sáng kiến. Phân tích những điều kiện thuận lợi, khó khăn của đơn vị với quá trình hoạt động. - Hệ thống biện pháp đã tác động. Bước 3: Phân tích, xử lí dữ liệu - Từ tất cả các tư liệu trên, phân tích những chuyển biến tích cực do áp dụng SK. - Tìm ra các quy luật, bài học kinh nghiệm. 3. Phương pháp viết SKKN: a. Chọn đề tài ( đặt tên đề tài ): Các vấn đề có thể chọn để viết SKKN rất phong phú, đa dạng, bao gồm nhiều lĩnh vực như : - Kinh nghiệm trong việc giảng dạy ( một chương, một bài, một nội dung kiến thức cụ thể ) - Kinh nghiệm trong việc giáo dục học sinh - Kinh nghiệm trong việc bồi dưỡng, phụ đạo học sinh - Kinh nghiệm trong việc tổ chức một họat động giáo dục cụ thể cho học sinh ( Ví dụ: họat động giáo dục ngòai giờ lên lớp, công tác xã hội ) - Kinh nghiệm giải quyết những vấn đề khó khăn, phức tạp trong khi tiến hành các họat động, các phong trào của Đội TNTP. Hồ Chí Minh ( VD: Tổ chức sinh hoạt sao nhi đồng, bồi dưỡng phụ trách sao,bồi dưỡng năng lực tự quản cho đội viên, bồi dưỡng BCH Đội, bồi dưỡng phụ trách chi đội,triển khai chương trình rèn luyện đội viên,xây dựng một mô hình họat động Đội, tổ chức bồi dưỡng một số kỹ năng cụ thể cho phụ trách chi đội, BCH đội,phụ trách sao) Khi tiến hành công việc viết SKKN, công việc đầu tiên của tác giả là cần suy nghĩ lựa chọn một tên đề tài phù hợp. Trong nghiên cứu khoa học (viết SKKN) việc xác định tên đề tài có ý nghĩa quan trọng số một, đôi khi nó còn quan trọng hơn cả việc giải quyết đề tài. Việc xác định tên đề tài chính xác có tác dụng định hướng giải quyêt vấn đề cho tác giả,giúp cho tác giả biết tập trung sự nghiên cứu vào vấn đề cần giải quyết, tránh được sự lan man, lạc đề. Tên đề tài chính là một mâu thuẫn, một vấn đề trong thực tiễn giảng dạy, giáo dục mà tác giả còn đang phân vân, trăn trở, tìm cách giải quyết, làm sáng tỏ. Tên đề tài mang tính chủ thể, đòi hỏi người viết phải có sự hứng thú với nó, phải kiên trì và quyết tâm với nó. Về mặt ngôn từ tên đề tài phải đạt các yêu cầu : - Đúng ngữ pháp. - Đủ ý , rõ nghĩa, không làm cho người đọc có thể hiểu theo ý khác. - Xác định được phạm vi, nội dung nghiên cứu cụ thể của đề tài, cần tránh vấn đề quá chung chung hoặc có phạm vi quá rộng khó có thể giải quyết trọn vẹn trong một đề tài. b. Viết đề cương chi tiết: Đây là một công việc rất cần thiết trong việc viết SKKN. Nếu bỏ qua việc này, tác giả sẽ không định hướng được mình cần phải viết cái gì, cần thu thập những tư liệu gì về lý thuyết và thực tiễn ,cần trình bày những số liệu ra sao? Việc chuẩn bị đề cương càng chi tiết bao nhiêu thì công việc viết SKKN càng thuận lợi bấy nhiêu. Khi xây dựng đề cương chi tiết, tác giả cần: - Xây dựng được một dàn bài chi tiết với các đề mục rõ ràng, hợp logic, chỉ ra được những ý cần viết trong từng đề mục cụ thể.Việc này cần được cân nhắc kỹ lưỡng sao cho đủ phán ánh nội dung đề tài, không thừa và cũng không thiếu. - Thiết kế các bảng thống kê số liệu phù hợp, các mẫu phiếu điều tra khảo sát, hình ảnh phục vụ thiết thực cho việc minh họa, dẫn chứng cho đề tài. -Kiên quyết lọai bỏ những đề mục,những bảng thống kê, những thông tin không cần thiết cho đề tài. c. Tiến hành thực hiện đề tài: -Tác giả tìm đọc các tài liệu liên quan đến đề tài, ghi nhận những công việc đã thực hiện trong thực tiễn (biện pháp, các bước tiến hành, kết quả cụ thể), thu thập các số liệu để dẫn chứng.Tác giả nên lưu trữ các tư liệu thu thập được theo từng lọai. Nên sử dụng các túi hồ sơ riêng cho từng vấn đề thuận tiện cho việc tìm kiếm, tổng hợp thông tin. - Trong quá trình thu thập tài liệu cần tiếp tục xem xét chỉnh sửa đề cương chi tiết cho phù hợp với tình hình thực tế. d. Viết bản thảo SKKN theo đề cương đã chuẩn bị.Khi viết SKKN tác giả cần chú ý đây là lọai văn bản báo cáo khoa học cho nên ngôn ngữ viết cần ngắn gọn, xúc tích, chính xác. Cần tránh sử dụng ngôn ngữ nói hoặc kể lể dài dòng nhưng không diễn đạt được thông tin cần thiết. e. Hòan chỉnh bản SKKN: đánh máy, in ấn. 4. Thực hiện viết SKKN: Một Sáng kiến kinh nghiệm có kết cấu cơ bản như sau: I. Đặt vấn đề: (Lý do chọn đề tài, Tổng quan, Một số vấn đề chung ...) - Nêu rõ lý do chọn đề tài nghiên cứu: Lý do về mặt lý luận, về thực tiễn, về tính cấp thiết, về năng lực nghiên cứu của tác giả (Những mâu thuẫn giữa thực trạng: bất hợp lí, cần cải tiến, yêu cầu mới, từ đó tác giả khẳng định cần có biện pháp thay thế, đó cũng là lí do chọn đề tài) - Xác định mục đích nghiên cứu của SKKN. Bản chất cần được làm rõ của sự vật là gì? Đối tượng nghiên cứu là gì? Đối tượng khảo sát, thực nghiệm. - Chọn phương pháp nghiên cứu nào? Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu (thời gian nghiên cứu bao lâu? Khi nào bắt đầu và kết thúc?) II. Giai quyết vấn đề: 1. Cơ sở lí luận: yêu cầu trình bày lí luận, lí thuyết đã được tổng kết (tóm tắt) bao gồm: khái niệm, khái quát kiến thức về vấn đề được chọn để viết SKKN. Cũng chính là cơ sở lí luận có tác dụng định hướng nghiên cứu, tìm kiếm giải pháp khắc phục hạn chế của vấn đề đã nêu trong đặt vấn đề. 2. Thực trạng: Tác giả trình bày những thuận lợi, khó khăn mà tác giả đã gặp phải trong vấn đề mà tác giả đã chọn để viết SKKN. Điều quan trọng trong phần này là mô tả,làm nổi bật những khó khăn ,những mâu thuẫn mà tác giả đang tìm cách giải quyết, cải tiến (kèm minh chứng) 3. Các biện pháp tiến hành (Trọng tâm) - .Trình bày trình tự biện pháp, phân tích và nhận xét về vai trò, tác dụng, hiệu quả của biện pháp thực hiện (Phần thực trạng và mô tả giải pháp có thể trình bày kết hợp; khi trình bày giải pháp mới có thể liên hệ với giải pháp cũ ðã thực hiện hoặc những thử nghiệm nhưng chưa thành công nhằm nêu bật được sáng tạo của giải pháp mới) 4. Hiệu quả: Đã áp dụng ở đâu? Kết quả cụ thể khi áp dụng SKKN (thể hiện bằng bảng tổng hợp kết quả, số liệu minh hoạ, đối chiếu, so sánh). III. Kết luận: - Những kết luận đánh giá cơ bản nhất về SKKN (nội dung, ý nghĩa, hiệu quả, bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình áp dụng SKKN của bản thân... - Những nhận định chung của tác giả về việc áp dụng và khả năng phát triển của đề tài. - Ý kiến đề xuất với Bộ GD-ĐT, Sở GD-ĐT, Trường để phát huy hiệu quả đề tài (tùy mức độ đề tài để kiến nghị, nếu có). 5. Qui định về cách trình bày - Đề tài SKKN được đánh máy, in, đóng quyển theo đúng quy định: soạn thảo trên khổ giấy A4 bằng MS Word; Font chữ Times New Roman; bảng mã Unicode; cỡ chữ: 14; dãn dòng đơn; lề trái: 3 cm; lề phải: 2 cm; lề trên: 2 cm; lề dưới: 2 cm. III. Vận dụng chuyên đề của bản thân: ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT SKKN: DẠY HỌC VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI QUA THUỐC VÀ TÔI YÊU EM PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài 1.1 Nước ta đang trong giai đoạn hội nhập và phát triển vì thế cần có sự phát triển đồng bộ, của tất cả các hình thái ý thức xã hội, các nhân tố khác nhau trong đó có giáo dục. Quan điểm giáo dục của Việt Nam là hướng đến sự toàn diện, không chỉ cung cấp tri thức mà quan trọng hơn cả là góp phần hoàn thiện nhân cách của con người- những Con Người thực thụ, để từ đó mỗi người có thể biết cách làm việc, biết cách chung sống, biết cách khẳng định mình. Môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông cũng không nằm ngoài hướng đi ấy bằng cách cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về văn học Việt Nam và văn học nước ngoài. 1.2. Vị trí của văn học nước ngoài trong chương trình văn học nhà trường rất quan trọng. Văn học nước ngoài được lựa chọn giảng dạy ở trường THPT chiếm một thời lượng không nhỏ trong chương trình và là sự kết tinh tinh hoa của văn học thế giới, đủ sức vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của không gian và của thời gian. Nhìn chung đó là những tác phẩm rất giàu giá trị nhân bản, tinh thần dân tộc có tác dụng lớn trong việc bồi dưỡng tâm hồn, hoàn thiện nhân cách. Không chỉ thế việc tiếp nhận các giá trị văn hóa lớn sẽ tạo điểm tựa tốt cho chúng ta xây dựng con người Việt Nam hiện đại, là cơ sở cho vấn đề hội nhập văn hóa thế giới- một vấn đề mang tính tất yếu hiện nay. 1.3 Từ năm học 2006-2007 đến nay SGK ngữ văn của cả ba khối lớp đã được thay đổi dựa trên tinh thần tích hợp của ba phân môn tiếng Việt, làm văn và đọc văn. Đặc biệt phần văn học Việt Nam và văn học nước ngoài được thiết kế đan xen vào nhau, giúp học sinh không chỉ có cái nhìn toàn diện hơn về nền văn học Việt Nam mà còn có cơ hội so sánh đối chiếu với nền văn học thế giới. Đây là sự đổi mới hết sức đúng đắn và phù hợp với phương pháp dạy văn và học văn hiện nay. Đặc biệt chúng ta không chỉ quan tâm và hứng thú với những tác phẩm văn học nước nhà, mà còn cần chú ý tìm tòi, cảm nhận sâu sắc nữa với những tác phẩm văn học nước ngoài. 1.4 Cả Lỗ Tấn và Puskin đều đã khẳng định được vị trí không thể thay thế của mình trên văn đàn thế giới. Nếu Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng vĩ đại của Trung Quốc"trước Lỗ Tấn chưa hề có Lỗ Tấn, sau Lỗ Tấn có vô vàn Lỗ Tấn" thì Puskin là ''mặt trời thi ca Nga, là người đóng vai trò khởi đầu cho mọi sự khởi đầu".Và hai tác phẩm được lựa chọn giảng dạy ở bậc phổ thông là Thuốc và Tôi yêu em đều có một vị trí xứng đáng trong sự nghiệp văn học của hai tác giả nhưng sự tiếp cận của cả giáo viên và học sinh chưa thực sự đúng mức, vì thế chưa thể thấu hết giá trị tư tưởng và nghệ thuật. 2. Lịch sử vấn đề Văn học là sản phẩm của tâm hồn nên dạy văn là một công việc lý thú nhưng không hề đơn giản. Vì thế tài liệu nghiên cứu và hướng dẫn giảng dạy xuất hiện rất nhiều. Cụ thể, chúng tôi đã tiếp cận với nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của các chuyên gia đầu ngành như: Nguyễn Thanh Hùng, Phan Trọng Luận, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Trọng Hoàn, Phùng Văn Tửu, Trần Đình Sử, Đỗ Kim Hồi...cũng như các tác phẩm văm học nước ngoài được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn phổ thông. Qua việc xem xét, nghiên cứu các tài liệu liên quan chúng tôi nhận thấy: Thứ nhất, những bài viết, những công trình nghiên cứu về các tác giả văn học lớn trên thế giới cũng như phương pháp dạy học văn khá phong phú và đa dạng, giúp ích rất nhiều cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên, các công trình ấy mới chỉ ra một cách khái quát hướng giảng dạy tác phẩm văn học nước ngoài ở trường phổ thông ở cấp độ nội dung chứ chưa hướng dẫn một cách cụ thể các phương thức tiến hành. Thứ hai, các cuốn sách giới thiệu các bài học đó còn tản mát ở các cuốn sách khác nhau, đặc biệt chưa chỉ ra cho học sinh thấy được cách thức chung khi tiếp cận một tác phẩm thơ hoặc văn xuôi nước ngoài như thế nào theo đặc trưng thi pháp thể loại và tính chất của tiếp nhận văn học Do đó, trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi đã học tập, kế thừa thành quả của những bậc tiền bối với mong muốn góp một tiếng nói nhỏ để từng bước nâng cao chất lượng dạy văn học văn hiện nay. 3. Giới hạn của đề tài Nghiên cứu đề tài này, do khuôn khổ của một sáng kiến kinh nghiệm và khả năng có hạn chúng tôi tập trung vào một số vấn đề sau: - Khảo sát nội dung,cấu trúc, thời lượng của chương trình văn học nước ngoài, vị trí cũng như thực tiễn giảng dạy ở trường THPT hiện nay - Chỉ ra thực trạng giảng dạy tác phẩm Thuốc, Tôi yêu em và một số vấn đề cần chú ý về thi pháp Lỗ Tấn thể hiện trong tác phẩm Thuốc, đặc điểm thở trữ tình Puskin. - Thiết kế thể nghiệm hai giáo án giảng dạy Thuốc và Tôi yêu em .Trên cơ sở đó đề ra những giải pháp pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy tác phẩm văn học nước ngoài. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 4.1. Phương pháp khảo sát thực tiễn 4.2. Phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp 4.3. Phương pháp so sánh đối chiếu 4.4.Giảng dạy thực nghiệm 5. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và thư mục tham khảo, đề tài được chia làm 3 chương - Chương 1: Văn học nước ngoài trong nhà trường phổ thông hiện nay - Chương 2: Những vấn đề cần lưu ý khi dạy hai tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn và Tôi yêu em của Puskin theo đặc trưng thi pháp thể loại và tầm tiếp nhận của học sinh - Chương 3: Thiết kế giáo án thể nghiệm PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I- VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY 1. Cấu trúc, thời lượng chương trình của văn học nước ngoài trong SGK Ngữ văn – chương trình Theo tinh thần tích hợp, những nhà soạn sách đã cân nhắc kỹ lưỡng để lựa chọn được những tác giả và tác phẩm cần thiết, đảm bảo tính tiêu biểu, gọn nhẹ. Có thể khẳng định: Văn học nước ngoài ở trường phổ thông có một tầm quan trọng đặc biệt 2. Vị trí, vai trò của văn học nước ngoài 2.1. Giúp học sinh có mộ cái nhìn tổng thể về tinh hoa văn học thế giới Trong cấu trúc của chương trình có nhiều tác phẩm của các tác giả nổi tiếng tiêu biểu cho các nền văn học qua các thời kỳ văn học khác nhau. Điều đó đã tạo điều kiện cho học sinh có thể mở rộng và nâng cao phông văn hóa của mình. Các tác phẩm được đưa vào giảng dạy đều là những tác phẩm nổi tiếng, kết tinh tư tưởng và phong cách nghệ thuật của các tác giả.Với những bộ tiểu thuyết lớn học sinh sẽ được học các trích đoạn tiêu biểu con phần lớn là được tiếp nhận trọn vẹn tác phẩm. 2.2 Giúp học sinh có sự đối sánh với văn học Việt Nam Nội dung của chương trình được sắp xếp theo tiến trình văn học của các dân tộc đó trong tiến trình văn học thế giới (trong đó có Việt Nam), đặc biệt được sắp xếp đan xen với văn học Việt Nam. Cách sắp xếp như vậy sẽ giúp học sinh có cái nhìn so sánh mang tính chất tổng thể với văn học nước nhà. 2.3 Góp phần xây dựng con người Việt Nam hiện đại để hội nhập văn hóa thế giới Xét một cách tổng thể thì văn học là tiếng nói của dân tộc, nên khi ta tiếp cận với một tác phẩm cũng có nghĩa là ta đang tiếp cận với một nền văn hóa. Vì vậy, khi tiếp nhận văn học nước ngoài theo tình thần đối thoại thì mỗi một học sinh sẽ được nâng cao tầm nhận thức, hiểu biết cơ bản về các giá trị tinh thần đặc sắc của nhân loại để từ đó tạo cho mình một điểm tựa vững chắc khi giao lưu học hỏi. Trên cơ sở hiểu được ngôn ngữ, tư tưởng và tâm hồn của các dân tộc khác nhau trên thế giới thì cơ hội để chúng ta xích lại gần nhau trong xu thế hội nhập là dễ dàng hơn rất nhiều. 3. Thực trạng giảng dạy văn học nước ngoài ở trường trung học phổ thông hiện nay Thực tiễn cho thấy rằng cùng một văn bản văn học nhưng mỗi cá nhân học sinh có cách tiếp nhận khác nhau, các giáo viên cũng không ai đi chung một con đường khi khám phá tác phẩm. Từ kết quả khảo sát, từ thực tiến việc giảng dạy của bản thân và dự giờ đồng nghiệp thường xuyên, chúng tôi thấy thực trạng dạy học VHNN hiện nay bắt nguồn từ hai phía: cả giáo viên và học sinh 3.1. Về phía giáo viên 3.1.1. Rất nhiều giáo viên đã không chú ý đến đổi mới phương pháp giảng dạy. 3.1.2. GV không đặt tác phẩm vào vào bầu không khí văn hóa, lịch sử của dân tộc sản sinh ra nó 3.2. Về phía học sinh Một điều dễ nhận thấy qua các tiết học là HS không chịu đọc tác phẩm trước ở nhà nên khi GV yêu cầu các em tái hiện kiến thức thì các em tỏ ra lúng túng, điều này thực sự gây khó khăn cho GV, năng lực cảm thụ, tiếp nhận của HS còn yếu. Có HS còn hiểu ngô nghê, sai lệch tác phẩm.Chẳng hạn, khi được hỏi "cảm nhận của em về Puskin qua tác phẩm tôi yêu em" thì có HS trả lời rằng "Đó là một con người hèn nhát vì không dám đấu tranh cho tình yêu" 3. Nguyên nhân Từ thực tế đáng lo ngại đó, chúng tôi đã cố gắng để đi tìm nguyên nhân nhằm tìm ra những giải pháp phù hợp, hữu ích cho quá trình giảng dạy. Bước đầu chúng tôi ghi nhận được những nguyên nhân sau: 3.1. Nguyên nhân khách quan * Có một thực tế mà người dạy trực tiếp chương trình ngữ văn không thể không nhận ra là từ lâu nay bộ phận văn học nước ngoài ít nằm trong chương trình kiểm tra, đánh giá, thi cử. * Do sự kh
File đính kèm:
- modul_25_hoan_chinh_mon_van.doc