Luận văn Nghiên cứu khả năng sử dụng bùn thải đô thị làm phân bón
hử nghiệm trên đối tượng bùn thải ở Việt Nam của nhóm các nhà nghiên
cứu thuộc Viện Công nghệ môi trường với kết quả bước đầu khá khả quan. Một số
chủng vi sinh vật hữu ích như Bacillus thuringiensis (dùng để sản xuất thuốc trừ sâu
sinh học), Rhizobium (vi khuẩn cố định đạm) đã được thử nghiệm và cho thấy có
khả năng phát triển tốt trên môi trường bùn thải của nhà máy bia (với nồng độ của
bùn thải là 20 g MLSS/L). Mật độ tế bào và nồng độ độc tính delta-endotoxin của vi
khuẩn Bacillus thuringiensis khi nuôi trên môi trường bùn thải đạt lần lượt là
(có hoặc không có thu hồi năng lƣợng), compost, phân hủy yếm khí, sấy khô thành viên nhiên liệu/ phân bón và đốt (có hoặc không có thu hồi năng lƣợng) [16]. Luận văn thạc sỹ khoa học Đỗ Thủy Tiên –K19MT 19 Cách đây khoảng một thập kỷ trƣớc, chôn lấp là phƣơng pháp xử lý chính tại châu Âu. Trong năm 1999, 57% bùn thải đô thị (MSW) đƣợc chôn lấp, so với 67% năm 1995 ở tây Âu, và 83% ở miền Trung và Đông Châu Âu (DHV CR, 2001). Trong nửa thập niên 90 và cho đến sau này, những nghiên cứu quan trọng, phát triển và thƣơng mại hóa hệ thống ủ Biogas đã xuất hiện ở châu Âu. Đồng thời, những nhà thiết kế và những nhà cung cấp hệ thống ủ biogas đang kết hợp quá trình xử lý sơ bộ rác thải, ủ biogas và kỹ thuật sản xuất compost để giảm đồng thời khối lƣợng và tỉ lệ chất hữu cơ của rác thải đƣa đi chôn lấp. Nhƣng hiện nay, chôn lấp đang trở thành một lựa chọn xử lý tốn kém hơn nhiều bởi một số lý do nhƣ: Sự gia tăng dân số, các quy định thay đổi yêu cầu bãi rác mới phải đầu tƣ công nghệ và quản lý chặt chẽ (Millner và cộng sự., 1998), sự tăng phát thải khí nhà kính CH4,CO2 và việc đƣa các kim loại nặng vào nƣớc và đất từ các bãi chôn lấp, quan trọng nhất là xử lý chôn lấp đổ thải tại các bãi rác không tận dụng lợi thế của các giá trị dinh dƣỡng và tính chất của chất rắn sinh học, và chiếm không gian bãi rác có thể đƣợc sử dụng tốt hơn cho các loại rác khác khiến lựa chọn này trở nên kém hấp dẫn. Tận thu nguồn năng lƣợng từ loại chất thải này đang đƣợc quan tâm tại châu Âu, bao gồm các biện pháp: - Phân hủy yếm khí bùn thải; - Sản xuất nhiên liệu sinh học từ bùn thải; - Đốt thu năng lƣợng trực tiếp; - Phối trộn, đốt bùn trong các nhà máy điện đốt than; - Khí hóa và nhiệt phân bùn; - Sử dụng của bùn nhƣ một năng lƣợng và nguồn nguyên liệu trong sản xuấtxi măng Portland và vật liệu xây dựng; - Quá trình siêu oxy hóa ƣớt ; - Xử lý thủy nhiệt. Chôn lấp có thu hồi năng lƣợng từ khí bãi chôn lấp là một lựa chọn quản lý hiện đại (Gomez et al., 2010). Trong năm 2005, 64% bùn thải ở Anh và xứ Wales là Luận văn thạc sỹ khoa học Đỗ Thủy Tiên –K19MT 20 xử lý bằng cách phân hủy yếm khí, đến năm 2015 con số này sẽ là 85%. Bùn đƣợc ủ trong các ô bao kín sẽ lên men, phân huỷ và sinh ra khí gas. Thực chất của công nghệ là biến rác thải, bùn thải thành khí gas để chạy máy phát điện. Phát điện từ than bùn sẽ đƣợc thực hiện theo cơ chế thu hồi khí từ bãi chôn lấp và phát điện theo Cơ chế phát triển sạch (CDM -Clean Development Mechanism). Điện do các máy phát sản xuất ra sẽ đƣợc dẫn đến máy biến thế, tăng điện áp lên để hòa vào mạng lƣới điện quốc gia. Bùn sau ủ đƣợc tận dụng thu hồi nito, photpho hay các ứng dụng khác [18]. Các công nghệ tận thu năng lượng khác từ bùn thải - Nhiệt phân (khí hóa): là một quá trình xử lý nhiệt trong đó bùn (hoặc sinh khối) đƣợc đun nóng dƣới nhiệt độ từ 350-500 °C trong điều kiện thiếu ôxy.Trong quá trình này, bùn đƣợc chuyển thành than, tro, nhiệt phân dầu, hơi nƣớc và các loại khí dễ cháy. Một phần của sản phẩm rắn/khí của nhiệt phân quá trình đƣợc thiêu hủy và sử dụng hệ thống sƣởi bằng năng lƣợng trong quá trình nhiệt phân. Mỹ là nƣớc đầu tiên áp dụng công nghệ khí hóa nhƣng ở quy mô hạn chế trong xử lý bùn thải và coi nó nhƣ biện pháp thân thiện với môi trƣờng. Khí hóa là công nghệ xử lý bùn thải có thể đƣợc dễ dàng chấp nhận hơn tiêu hủy hay đốt. Tuy nhiên, kinh phí đầu tƣ cho công nghệ khí hóa rất tốn kém và công nghệ khó đƣợc phổ biến chính bởi nguyên nhân kinh tế. - Sử dụng bùn nhƣ một năng lƣợng và nguồn nguyên liệu trong sản xuất xi măng Portland và vật liệu xây dựng là một biện pháp tận dụng nguồn cacbon có chứa các hợp chất hữu cơ và các hợp chất vô cơ đại diện cho vật liệu có giá trị trong bùn nƣớc thải. Có nhiều khả năng sử dụng các hợp chất này cùng một lúc một cách có lợi. Tuy đã đƣợc nghiên cứu ở các nƣớc châu Mỹ và châu Âu nhƣng phƣơng pháp này đƣợc phát triển nhiều ở các nƣớc châu Á đặc biệt là ở Nhật Bản. - US-EPA ƣớc tính rằng trong hơn bảy triệu tấn bùn khô (DMTs) của nƣớc thải đƣợc sản xuất hàng năm hiện nay, hơn một nửa bùn (54 %) có thể mang lại lợi nhuận, nghĩa là, áp dụng vào nông nghiệp, làm vƣờn, đất lâm nghiệp...tạo ra giá trị kinh tế. Dựa trên kinh nghiệm với việc sử dụng phân ngƣời, nƣớc thải, và phân Luận văn thạc sỹ khoa học Đỗ Thủy Tiên –K19MT 21 động vật trên đất canh tác, việc sử dụng bùn thải làm phân bón đã đƣợc thực hiện và phát triển nhanh chóng. Các công nghệ ủ bùn sinh học làm phân compost đặc biệt phát triển nhƣ công nghệ ủ trong thùng ủ quy mô nhỏ hoặc lò ủ quy mô công nghiệp ở Mỹ; công nghệ ủ luống đảo trộn với quy mô công nghiệp ở Canada; công nghệ ủ trong thùng ủ thu hồi nang luợng ở Ðức và công nghệ ủ trong tháp ủ thổi khí cuỡng bức ở Ý... Các công nghệ tái chế bùn thải mới trên thế giới [17] - Ý tƣởng tái sử dụng bùn thải làm môi trƣờng thay thế cho môi trƣờng nhân tạo để nuôi cấy vi sinh vật nhằm nâng cao giá trị của bùn thải lần đầu tiên đƣợc phát triển bởi giáo sƣ R.D. Tyagi thuộc Viện Nghiên cứu khoa học quốc gia, Quebec, Canada (INRS). Ƣu điểm nổi bật của hƣớng nghiên cứu này là tận dụng thành phần dinh dƣỡng trong bùn thải để thay thế cho môi trƣờng nhân tạo đắt tiền (thƣờng đƣợc sử dụng trong quá trình nuôi cấy vi sinh vật để tạo ra các sản phẩm sinh học có ích) nhƣ: các loại chế phẩm ứng dụng cho nông lâm nghiệp (thuốc trừ sâu sinh học và các vi khuẩn kháng nấm, bệnh trên cây công nghiệp, chế phẩm dùng trong cải tạo đất trồng cây); Hóa chất keo tụ sinh học (dùng trong xử lý nƣớc thải và bùn thải); Chế phẩm sinh học dùng cho xử lý nƣớc thải (xử lý kim loại nặng, thuốc nhuộm, hợp chất hữu cơ khó phân hủy trong nƣớc rác); Polyme sinh học dùng trong sản xuất túi đựng, màng bao gói tự phân hủy.Việc tận dùng bùn thải vừa giúp giảm giá thành vừa góp phần bảo vệ môi trƣờng. - Nghiên cứu phát triển các xu hƣớng xử lý bùn thải mới tại Mỹ đang đƣợc tiến hành theo nhiều công nghệ mới đƣợc xác định là sáng tạo hoặc tiềm năng (EPA, 2006) nhƣ những công nghệ khác nhau, trong đó có khả năng làm giảm tổng thể khối lƣợng chất rắn sinh học chất thải và cung cấp tiết kiệm đáng kể trong việc xử lý, chế biến và vận chuyển sản phẩm cuối, bao gồm: quá trình MicroSludge; quá trình Siêu âm ly giải tế bào trƣớc khi phân hủy yếm khí;quá trình thủy nhiệt; Quá trình Cannibal™; Công nghệ ổn định chất lỏng; Công nghệ làm dày và khử nƣớc; và quá trình Chuyển đổi nhiệt.Các phƣơng pháp và công nghệnày tốn kém và đòi hỏi kiến thức kỹ thuật cao để đảm bảo bền vững hoạt động và lâu dài của công Luận văn thạc sỹ khoa học Đỗ Thủy Tiên –K19MT 22 trình. Tuy nhiên công nghệ này có một số lợi thế nhƣ:Phục hồi năng lƣợng; Phục hồi các chất dinh dƣỡng; Lựa chọn mới trong xử lý nƣớc; Nguồn mới cho sản xuất vật liệu. - Một phƣơng pháp ứng dụng triệt để và kết hợp các công nghệ xử lý bùn hiệu quả đó là phƣơng pháp xử lý bùn tổng hợp. Bùn sẽ đƣợc tách các thành phần hữu cơ và vô cơ bằng phƣơng pháp thủy lực. Chất vô cơ nặng sẽ lắng xuống đáy bồn trong khi chất hữu cơ nhẹ hơn sẽ nổi lên trên. Các chất vô cơ đƣợc tách ra sẽ đƣợc tận dụng để sản xuất vật liệu xây dựng, trong khi các chất hữu cơ đƣợc xử lý tiếp bằng phƣơng pháp sinh học để tách riêng các kim loại nặng với phần bùn hữu cơ sạch. Phần bùn hữu cơ sạch sẽ đƣợc tận dụng để trồng cây và cải tạo đất nông nghiệp. Còn lại các kim loại nặng sẽ đƣợc xử lý theo phƣơng pháp hóa học để tách riêng từng kim loại hoặc hóa rắn toàn bộ để chôn lấp an toàn. Việc xử lý một tấn bùn chứa kim loại bằng phƣơng pháp truyền thống (sấy, đốt, hóa rắn, chôn lấp) cũng mất tới gần 200 USD trong khi xử lý bằng phƣơng pháp sinh học và hóa học chỉ mất 53 USD. Công nghệ tái sử dụng bùn thải tại Mỹ [17] Bùn thải ở Mỹ là những phế liệu rắn sinh ra từ quá trình xử lý nƣớc thải và xử lý đạt quy định của liên bang và tiểu bang. Mỹ sử dụng khoảng 60 phần trăm của các chất rắn sinh học đƣợc tạo ra cho mục đích nông nghiệp. - Bùn thải làm đất trồng trọt, chôn lấp và đốt chiếm 80% việc sử dụng bùn thải của Mỹ trong năm 2004 (Nebra, 2007). Ứng dụng làm phân bón hay một loại đất bổ sung cho trồng trọt ở Bắc Mỹ là một lựa chọn chi phí thấp đƣợc ƣa thích. - Ở Mỹ, công nghệ nhƣ ủ và sấy khô (bao gồm cả pelletizing) đang đƣợc thực hiện. Một trong những công nghệ phổ biến ở các nhà máy xử lý bùn thải là áp dụng xử lý bùn thải ở trong những thiết bị ủ kín nhƣng không thổi khí. Phƣơng pháp ủ kỵ khí này tuân thủ theo các trình tự sau: bùn đƣợc tiếp nhận và đƣa vào các thiết bị ủ kín dƣới dạng các lò ủ kín có phối hợp các chủng loại men vi sinh vật khử mùi, thúc đẩy quá trình lên men, sau đó đƣợc đƣa ra sấy khô, nghiền và đóng bao. Ƣu điểm là xử lý triệt để bảo vệ đƣợc môi trƣờng, thu hồi phân bón (có Luận văn thạc sỹ khoa học Đỗ Thủy Tiên –K19MT 23 tác dụng cải tạo đất), cung cấp đƣợc nguyên vật liệu cho các ngành công nghiệp, không mất kinh phí xử lý bùn. Nhƣợc điểm là đòi hỏi kinh phí đầu tƣ lớn, kinh phí duy trì cao, chất lƣợng phân bón thu hồi không cao, công nghệ phức tạp (phải qua sấy). Hình 1.1.Sơ đồ công nghệ xử lý bùn thải sinh hoạt của Mỹ Công nghệ tái sử dụng bùn thải tại Nhật Bản [19] Ở Nhật Bản, bùn thải đƣợc tài nguyên hóa và việc tái sử dụng bùn thải vào một số sản suất nhƣ: - Làm phân compost từ bùn: Việc làm phân compost từ bùn thải bằng cách phân giải, ổn định hóa phƣơng pháp sinh học đối với các chất hữu cơ trong bùn thải. Nếu mang bùn thải loại này rải trên đồng ruộng thì cũng có hiệu quả nhƣ làm phân compost. Ngoài ra, với việc phát sinh nhiệt khi tạo thành phân compost thì có khả năng loại bỏ các vi sinh vật có hại nên đây là phƣơng pháp rất thích hợp sử dụng ở vùng nông thôn xét ở cả hai mặt là chất lƣợng và vệ sinh. - Thu hồi kim loại nặng: Bùn từ các nhà máy xử lý nƣớc thải tập trung của khu công nghiệp, nhà máy luyện kim, cơ khí, xử lý nƣớc chứa nhiều kim loại nặng nhƣ chì, thủy ngân, niken, crom, đồng, sắt đƣợc thu gom và dùng phƣơng pháp Luận văn thạc sỹ khoa học Đỗ Thủy Tiên –K19MT 24 sinh học để tách kim loại. Bùn thải từ nhà máy nƣớc và nhà máy phỉ mạ chứa nhiều sắt (hàm lƣợng sắt là 1,778 – 5,334 mg/kg) nên đƣợc tận dụng làm bột màu hoặc sản xuất đinh. - Làm nguyên liệu sản xuất điện năng:Tại Nhật Bản, thành phố Tokyo lắp đặt thiết bị thí nghiệm có khả năng xử lý 5 tấn bùn thải mỗi ngày tại cơ sở xử lý của thành phố. Tính toán trong phòng thí nghiệm cho biết, việc sử dụng bùn thu từ nƣớc thải (khoảng 3000 tấn/ngày) từ 23 quận của Tokyo có thể cung cấp điện năng cho khoảng 8000 hộ gia đình. - Đóng rắn làm vật liệu xây dựng: Quy trình đóng rắn bùn bằng nhiệt là công nghệ phát triển chính ở Nhật Bản. Sản phẩm là các hỗn hợp nhẹ, gạch, ngói, đốt thành than và xỉ. Sản phẩm cuối cùng có chất lƣợng tốt hơn sản phẩm truyển thống. Theo kinh nghiệm của các nhà sản xuất Nhật Bản thì đây là công nghệ có tính khả thi nhƣng hiệu quả kinh tế không cao.Giá sản xuất cao hơn giá cả thị trƣờng, nhu cầu năng lƣợng lớn.Tuy nhiên, đây là công nghệ phù hợp với các thành phố lớn để loại bỏ bùn thải, sản phẩm đƣợc tái sử dụng ngay ở thành phố. 1.3.2. Hiện trạng quản lý và tái sử dụng bùn thải tại Việt Nam Quản lý bùn thải tại Việt Nam Tại Việt Nam, bùn thải đƣợc quy định, quản lý trong các văn bản sau: - Bùn thải từ hệ thống xử lý nƣớc thải đƣợc quản lý theo quy định về quản lý chất thải rắn (từ điều 77 đến điều 80, Mục 3, Chƣơng VIII, Luật Bảo vệ môi trƣờng năm 2005). - Bùn thải có yếu tố nguy hại phải đƣợc quản lý theo quy định về chất thải nguy hại (từ điều 70 đến điều 76, Mục 2, Chƣơng VIII, Luật Bảo vệ môi trƣờng). Việt Nam đã ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngƣỡng chất thải nguy hại QCVN 07: 2009/BTNMT, đƣợc áp dụng với bùn thải trong trƣờng hợp xác định ngƣỡng nguy hại của các thông số trong bùn thải từ các hệ thống xử lý nƣớc và hiện đang xây dựng quy chuẩn riêng quy định ngƣỡng nguy hại của các thông số trong bùn thải phát sinh từ hệ thống xử lý nƣớc thải, xử lý nƣớc cấp (gọi chung là hệ thống xử lý nƣớc), làm cơ sở để phân loại và quản lý bùn thải. Luận văn thạc sỹ khoa học Đỗ Thủy Tiên –K19MT 25 Ngoài quy định cụ thể về bùn thải nguy hại, việc quản lý và xử lý bùn thải nói chung trong cả nƣớc hiện nay đang bị bỏ trống, chƣa có bộ ngành nào quan tâm đúng mức. Ngay cả các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng chƣa đề cập đến bùn thải. Tình hình nghiên cứu tái chế bùn thải ở Việt Nam Bên cạnh những hạn chế trong các phƣơng pháp quản lý và xử lý bùn thải theo hƣớng cũ (không đƣợc xử lý mà bị xả thẳng ra môi trƣờng, không đƣợc xử lý triệt để, thƣờng đem chôn lấp) đã có nhiều hƣớng nghiên cứu mới đƣợc phát triển tại nƣớc ta nhằm mục đích tận thu, sử dụng hiệu quả và quản lý tốt hơn cho nguồn thải này. Dƣới đây là một số nghiên cứu, hƣớng phát triển cụ thể đã đƣợc công bố tại nƣớc ta. + Xử lý sinh học kỵ khí kết hợp bùn và rác hữu cơ ở chế độ lên men nóng [25] Kết quả xử lý sinh học kỵ khí kết hợp bùn và rác hữu cơ ở chế độ lên men nóng 55oC đƣợc thực hiện bởi nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học & Kỹ thuật Môi trƣờng (Đại học Xây dựng), Viện Kỹ thuật Nƣớc thải (Đại học Kỹ thuật Tổng hợp Darmstadt) và Khoa Kỹ thuật Môi trƣờng (Đại học Tổng hợp Kitakyushu) đƣa ra đƣợc xem là giải pháp giúp tận thu tài nguyên và bảo vệ môi trƣờng đô thị. Kết quả bƣớc đầu nghiên cứu của nhóm cho thấy, với mô hình này, tỷ lệ phân hủy chất hữu cơ đạt 80%, với 70% thành phần khí sinh học thu đƣợc là biogas. Đáng chú ý là mầm bệnh bị tiêu diệt hết khi lƣu trong bể xử lý chỉ sau vài giờ... + Tái chế bùn thải sinh học thành nguyên liệu tạo ra chế phẩm VSV [26] Thử nghiệm trên đối tƣợng bùn thải ở Việt Nam của nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Viện Công nghệ môi trƣờng với kết quả bƣớc đầu khá khả quan. Một số chủng vi sinh vật hữu ích nhƣ Bacillus thuringiensis (dùng để sản xuất thuốc trừ sâu sinh học), Rhizobium (vi khuẩn cố định đạm) đã đƣợc thử nghiệm và cho thấy có khả năng phát triển tốt trên môi trƣờng bùn thải của nhà máy bia (với nồng độ của bùn thải là 20 g MLSS/L). Mật độ tế bào và nồng độ độc tính delta-endotoxin của vi khuẩn Bacillus thuringiensis khi nuôi trên môi trƣờng bùn thải đạt lần lƣợt là Luận văn thạc sỹ khoa học Đỗ Thủy Tiên –K19MT 26 4,7x10 8 CFU/mL và 619 mg/L. Vi khuẩn Rhizobium cũng phát triển tốt trên môi trƣờng bùn thải với mật độ tế bào đạt 2,6x108 CFU/mL. Bên cạnh đó, nhóm các nhà khoa học cũng hợp tác nghiên cứu và đánh giá khả năng ứng dụng của chất keo tụ sinh học dựa trên việc nuôi cấy một số chủng vi sinh vật EPS (hợp chất polymer ngoại bào) trên môi trƣờng bùn thải. Đây là một hƣớng nghiên cứu mới và có khả năng ứng dụng nhiều trong xử lý nƣớc thải và ổn định bùn thải. + Sản xuất vật liệu xây dựng từ bùn thải [27] - Nhóm nghiên cứu và phát triển công nghệ mới thuộc Hội Khoa học và Kỹ thuật xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh đã hoàn thiện công nghệ sử dụng bùn thải nguy hại để sản xuất vữa bê tông công nghiệp. Trong công nghệ sản xuất này, bùn thải đƣợc khử mùi bằng chất phụ gia trƣớc khi đƣợc đƣa vào hỗn hợp với đá, xi măng và nƣớc đã pha phụ gia. Vữa bê tông đƣợc tạo thành nhờ phản ứng ôxi hoá – khử của các hợp chất trong phụ gia đƣợc sử dụng. Các tấm bê tông từ bùn thải đã đạt đƣợc yêu cầu về môi trƣờng và chỉ số kỹ thuật về cƣờng độ bê tông. - Công nghệ sản xuất gạch từ bùn thải đƣợc hoàn thiện bởi Trung tâm Công nghệ và Quản lý Môi trƣờng (Cementa) Thành phố Hồ Chí Minh. Bùn thải đƣợc làm khô, tách riêng các thành phần vô cơ (cát) và hữu cơ (bùn) bằng phƣơng pháp thuỷ lực. Cát mịn đƣợc dùng để sản xuất gạch xây dựng. Phần bùn sau khi đƣợc xử lý bằng vi sinh vật để tách kim loại sẽ đƣợc dùng làm phân bón hữu cơ. Bùn thải công nghiệp có chứa hàm lƣợng kim loại nặng cao đƣợc dùng để sản xuất màu pha dùng trong sản xuất gạch. - Ngoài ra, một công nghệ mới cũng đã đƣợc nghiên cứu phát triển để sản xuất vật liệu xây dựng nhà ở và đƣờng giao thông nông thôn từ bùn đỏ và tro bay – công nghệ Geoplymer. Công nghệ này đã đƣợc PGS. TS Nguyễn Văn Chánh cùng nhóm cộng sự Trƣờng Đại học Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh trình bày tại hội thảo “Ứng dụng vật liệu xây dựng, thiết bị công nghệ mới trong các công trình xây dựng đảm bảo an toàn, tiết kiệm năng lƣợng và giá thành hợp lý” [28]. Luận văn thạc sỹ khoa học Đỗ Thủy Tiên –K19MT 27 + Công nghệ khử mùi hôi và hoá rắn bùn cống rãnh (Treatment of hazardous Sludge) –THS [29] Công nghệ THS sử dụng bùn cống rãnh, bùn thải nguy hại làm phối liệu cho vữa bê tông xi măng xây dựng hạ tầng kỹ thuật của nhóm nghiên cứu & phát triển công nghệ mới (Hội Khoa học & Kỹ thuật Xây dựng Tp. Hồ Chí Minh) theo sơ đồ công nghệ Hình 1.2 Hình 1.2. Sơ đồ công nghệ THS Tại phòng thí nghiệm, các khối bê tông đƣợc đúc từ nhiều loại bùn cống rãnh, bùn thải nguy hại đã đạt đƣợc các yêu cầu về môi trƣờng và chỉ số kỹ thuật về cƣờng độ bê tông. Các chất nguy hại trong bùn cống rãnh, bùn thải sau khi xử lý bằng công nghệ THS đã triệt tiêu hoặc giảm xuống dƣới ngƣỡng cho phép và điều đặc biệt và đƣợc quan tâm chú ý đến là không những xử lý đƣợc mùi hôi thối nồng nặc từ bùn cống rãnh mà còn có thể tái sử dụng lại bùn cống rãnh cho nhiều mục đích khác nhƣ trong xây dựng Kết quả phân tích sắc ký cho thấy thành phần và tỉ lệ các kim loại nặng không còn hoặc không vƣợt ngƣỡng cho phép của tiêu chuẩn an toàn môi trƣờng TCVN 7629 – 2007. Bùn cống rãnh, bùn thải nguy hại Khử mùi hôi bằng cách trộn với BOF1, BOF2(Beton odour fetid) Khử các chất độc hại bằng phụ gia HSOB(Hazardous sludge of beton) Hỗn hợp vữa bê tông rắn chắc từ bùn cống rãnh, bùn thải Luận văn thạc sỹ khoa học Đỗ Thủy Tiên –K19MT 28 + Sản xuất phân hữu cơ sinh học - Tận dụng bùn thải từ công nghệ chế biến nông sản thực phẩm và thuỷ hải sản để sản xuất phân hữu cơ sinh học bằng phƣơng pháp ủ men vi sinh của Viện Ứng dụng Công nghệ tại Tp. Hồ Chí Minh [30] Quy trình công nghệ sản xuất phân hữu cơ từ nguyên liệu bùn thải bao gồm 4 bƣớc, thể hiện trong Hình 1.3 Hình 1.3. Quy trình công nghệ sản xuất phân hữu cơ từ nguyên liệu bùn thải Phân hữu cơ sinh học đƣợc sản xuất từ bùn thải bằng công nghệ ủ men vi sinh và bổ sung khoáng chất đạt tiêu chuẩn chất lƣợng quy định đối với phân hữu cơ sinh học của Bộ Nông nghiệp và PTNT (theo Quyết định 100/2008/QĐ-BNN 15/10/2008). - Sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ bùn đáy ao cá tra nuôi thâm canh (công nghiệp) của nhóm tác giả trƣờng Đại học Cần Thơ [31] Trong nghiên cứu các tác giả đã sử dụng chất thải ao nuôi cá cá tra lấy từ trại cá tra bằng cách bơm từ đáy ao cá lên (xi phông). Và các vật liệu khác nhƣ nấm Trichoderma, vi khuẩn cố định đạm, vi khuẩn hòa tan lân đã đƣợc sử dụng trong thí Làm giảm độ ẩm nguyên liệu bùn thải Làm tăng sinh khối men vi sinh Phối trộn dịch men vi sinh, ủ hoại Nghiền mịn, phối trộn khoáng theo thành phần đăng ký Luận văn thạc sỹ khoa học Đỗ Thủy Tiên –K19MT 29 nghiệm. Thí nghiệm đƣợc thực hiện tại 3 địa điểm với 3 loại xác thực vật khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy:Sử dụng bùn đáy ao cá tra nuôi thâm canh cùng với xác bã thực vật có sẵn nhƣ rơm rạ, bèo lục bình, bổ sung nấm Trichoderma sp. và khoáng apatit để sản xuất phân hữu cơ vi sinh đạt tiêu chuẩn của Bộ NN&PTNT (TCVN 6169:1996) về pH, độ ẩm, tỉ lệ C/N, hàm lƣợng P dễ tiêu và mật số tế bào vi sinh vật có ích (>106 tế bào/g phân). 1.3.3. Hiện trạng bùn thải đô thị của vùng nghiên cứu. Do quá trình đô thị hóa mạnh mẽ từ năm 1990 đến nay, phần lớn các sông hồ Hà Nội đều rơi vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Sông Tô Lịch, trục tiêu thoát nƣớc thải chính của thành phố, hàng ngày phải tiếp nhận khoảng 150.000 m³. Tƣơng tự, sông Kim Ngƣu nhận khoảng 125.000 m³ nƣớc thải sinh hoạt mỗi ngày. Sông Lừ và sông Sét trung bình mỗi ngày cũng đổ vào sông Kim Ngƣu khoảng 110.000 m³ [24
File đính kèm:
- Nghien_cuu_kha_nang_su_dung_bun_thai_do_thi_Ha_Noi_lam_phan_bon_20150726_101521.pdf