Lịch sử 9 - Quá trình sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu
Thất bại của cải tổ và sự tan rã của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết.
Do cải tổ chệch hướng, Liên Xô càng lún sâu vào khủng hoảng và rối loạn. Mặc dù đã có nhiều cố gắn đưa nước nhà ra khỏi khủng hoảng, giải quyết các mâu thuẫn dân tộc, nhưng lúc này đường lối Đảng Cộng sản Liên Xô đã tiếp cận tư tưởng của chủ nghĩa xã hội dân chủ, xa rời các nguyên lí chủ nghĩa xã hội khoa học. Nền kinh tế tiếp tục xuống dốc. Đảng Cộng sản bị cấm hoạt động ở các tổ chức Nhà nước, một số nơi đã tuyên bố tách khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô. Các nước như: Litva, Latvia, Extonia, Ucraina, Grudia, Cadacxtan, Acmenia.lần lượt tuyên bố chủ quyền riêng. Sự tan rã của Xô viết chỉ còn là vấn đề thời gian.
Ngày 21/112/1991 lãnh đạo 11 nước cộng hòa trong Liên bang Xô viết đã họp và kí Hiệp định về việc giải tán Liên bang Xô viết, thành lập Cộng đồng các quốc gia đọc lập (SNG). 25/12/1991 Tổng thống Góocbachóp tuyên bố từ chức, quốc kì Liên Xô trên điện Cremli bị hạ xuống, đánh dấu sự chấm hết của chế độ XHCN ở Liên bang Xô viết sau 74 năm tồn tại.
2. Các nước Đông Âu sụp đổ:
Cũng như Liên Xô, cuối nghững năm 70, đầu những năm 80 của thế kỉ XX, các nước Đông Âu lâm vào tình trạng khủng hoangrlinh tế chính trị ngày càng gay gắt. Năm 1989 kinh tế Đông Âu chìm sâu vào khủng hoảng: Sản xuất công nghiệp và nông nghiệp giảm, số nợ nước ngoài tăng nhanh ( năm 1980 Rumani nợ 11 tỉ USD đến năm 1989 lên tới 21 tỉ USD); đời sống nhân dân khó khăn, tình trạng mất lòng tin lan tràn, sự bất bình tăng lên.
Trước tình hình đó , các nước Đông Âu đều thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng, từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thế lực chống CNXH thắng thế lên nắm quyền. Đến năm 1989- 1990, CNXH ở các nước Đông Âu bị sụp đổ, tất cả quay lại với con đường TBCN.
Học phần: Lịch sử thế giới hiện đại Tên: Hồ Thị Bích Trâm Đề: Quá trình sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu. Từ sau những năm 70 của thế kỉ XX, lịch sử thế giới bước sang thời kì mới. Các nước tư bản chủ nghĩa tiến hành cải cách về kinh tế, áp ụng những tiến bộ khoa học-công nghệ, thích nghi về chính trị nên có bước phát triển nhanh chóng. Trong khi đó, từ giữa những năm 70 nhất là nữa sau những năm 80 của thế kỉ XX, nền kinh tế Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lâm vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng trầm trọng. Khủng hoảng kinh tế dẫn đến khủng hoảng chính trị đã làm sụp đổ chế độ XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Công cuộc cải tổ và sự sụp đổ của Liên Xô: * Liên Xô trước cải tổ: Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 đã mở đầu cho cuộc khủng hoảng về nhiều mặt của thế giới. Liên Xô cũng không thoát khỏi tình trạng trên. Song do các nhà lãnh đạo Liên Xô không kịp thời có biện pháp đối phó, thêm vào đó là mô hình tập quyền cao và thể chế quản lý xơ cứng của thời chiến và khôi phục kinh tế sau chiến tranh không còn phù hợp với phát triển kinh tế trong điều kiện hòa bình. Nên trước “cải tổ” nền kinh tế Liên Xô tăng trưởng chậm, cơ cấu mất cân đối, năng xuất sản xuất thấp, chất lượng sản phẩm kém, lãng phí nhiều, hiệu quả thấp, kỹ thuật công nghiệp dân dụng lạc hậu, thiếu hàng tiêu dùng, nhân dân lao động thiếu hăng hái. Vị trí cường quốc của Liên Xô bị thách thức. * Bước đầu cải tổ (4/1985-6/1988): Trước tình trạng khủng hoảng của nước nhà, Góocbachóp lãnh đạo Hội nghị XXVII của Đảng Cộng sản Liên Xô (4/1985) đã đề ra phương châm đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, thông qua Luật về xí nghiệp quốc doanh và Luật về việc toàn dân thảo luận những vấn đề quan trọng trong sinh hoạt Nhà nước, giúp công cuộc cải tổ rõ ràng, đúng hướng và có nhiều điểm mới. Công cuộc cải tổ còn giải quyết những vấn đề khác như: chỉnh đốn đội ngũ cán bộ, loại bỏ những cán bộ thiếu trách nhiệm.... Trong những năm đầu cải tổ đã đảm bảo được mục tiêu và định hướng xã hội chủ nghĩa, các chính sách và biện pháp cải tổ kinh tế đã bước đầu có kết quả khả quan, tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định và có xu hướng phát triển. * Cải tổ sâu rộng và sự chệch hướng XHCN: Tháng 7/ 1988 Hội nghị toàn Liên bang Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XIX đánh dấu sự chuyển hướng cải tổ trên tất cả các mặt của Liên Xô. Trọng tâm cải tổ từ lĩnh vực kinh tế chuyển sang chính trị. Cải tổ trở thành sự tranh giành quyền lực, làm suy yếu đi để đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện chế độ nghị viện, đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng... Cải tổ chính trị đã đưa con tàu cải tổ đi chệch hướng, trượt khỏi quỷ đạo tự hoàn thiện chủ nghĩa xã hội, đẩy Liên Xô vào cuộc khủng hoảng chế độ. * Thất bại của cải tổ và sự tan rã của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết. Do cải tổ chệch hướng, Liên Xô càng lún sâu vào khủng hoảng và rối loạn. Mặc dù đã có nhiều cố gắn đưa nước nhà ra khỏi khủng hoảng, giải quyết các mâu thuẫn dân tộc, nhưng lúc này đường lối Đảng Cộng sản Liên Xô đã tiếp cận tư tưởng của chủ nghĩa xã hội dân chủ, xa rời các nguyên lí chủ nghĩa xã hội khoa học. Nền kinh tế tiếp tục xuống dốc. Đảng Cộng sản bị cấm hoạt động ở các tổ chức Nhà nước, một số nơi đã tuyên bố tách khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô... Các nước như: Litva, Latvia, Extonia, Ucraina, Grudia, Cadacxtan, Acmenia...lần lượt tuyên bố chủ quyền riêng. Sự tan rã của Xô viết chỉ còn là vấn đề thời gian. Ngày 21/112/1991 lãnh đạo 11 nước cộng hòa trong Liên bang Xô viết đã họp và kí Hiệp định về việc giải tán Liên bang Xô viết, thành lập Cộng đồng các quốc gia đọc lập (SNG). 25/12/1991 Tổng thống Góocbachóp tuyên bố từ chức, quốc kì Liên Xô trên điện Cremli bị hạ xuống, đánh dấu sự chấm hết của chế độ XHCN ở Liên bang Xô viết sau 74 năm tồn tại. Các nước Đông Âu sụp đổ: Cũng như Liên Xô, cuối nghững năm 70, đầu những năm 80 của thế kỉ XX, các nước Đông Âu lâm vào tình trạng khủng hoangrlinh tế chính trị ngày càng gay gắt. Năm 1989 kinh tế Đông Âu chìm sâu vào khủng hoảng: Sản xuất công nghiệp và nông nghiệp giảm, số nợ nước ngoài tăng nhanh ( năm 1980 Rumani nợ 11 tỉ USD đến năm 1989 lên tới 21 tỉ USD); đời sống nhân dân khó khăn, tình trạng mất lòng tin lan tràn, sự bất bình tăng lên. Trước tình hình đó , các nước Đông Âu đều thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng, từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thế lực chống CNXH thắng thế lên nắm quyền. Đến năm 1989- 1990, CNXH ở các nước Đông Âu bị sụp đổ, tất cả quay lại với con đường TBCN. Cuộc khủng hoảng nổ ra sớm nhất ở Ba Lan (1988), rồi sau đó nhanh chóng lan rộng sang các nước Hung-ga-ri, Tiệp Khắc, Cộng hòa Dân chủ Đức, Ru-m-ni, Bun-ga-ri, Nam Tư và An-ba-ni. Như vậy đến cuối năm 1989 chế độ XHCN đã bị sụp đổ ở hầu hết các nước Đông Âu. * Nguyên nhân sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, song nó bao gồm những nguyên nhân chung sau: - Nguyên nhân sâu xa: Do mô hình CNXH theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp không còn phù hợp với tình hình mới làm nảy sinh tình trạng thụ động dân chủ, thiếu dân chủ và công bằng, vi phạm pháp chế XHCN. + Về kinh tế: không chú trọng tới đặc điểm của kinh tế hàng hóa và quy luật giá trị, tới cơ cấu đa dạng của sản phẩm hàng hóa có chất lượng và giá trị để cạnh tranh... Cứng nhắc trong cơ chế quản lý và chính sách. + Về chính trị: hệ thống tổ chức cồng kềnh, nhiều tầng nấc, dễ quan liêu hóa, rời xa thực tiễn, xa dân, kém hiệu quả... + Về văn hóa-xã hội và đời sống tinh thần: các lĩnh vực văn hóa đơn điệu nghèo nàn, không khuyến kích giao lưu văn hóa với nước ngoài. Hệ tư tưởng rời xa thực tế. Thiếu dân chủ và công bằng xã hội. - > Những thiếu xót không được khắc phục dận tới tình trạng trượt dài từ trì trệ đến khủng hoảng nặng nề về kinh tế xã hội. - Nguyên nhân chủ quan: Do sai lầm trong cải tổ đất nước: + Sự dao động về tư tưởng, lập trường chính trị, mất phương hướng chính trị và từ bỏ nguyên tắc ở thời điểm bước ngoặc. + Không giải quyết đúng mối quan hệ cải cách kinh tế và cải cách chính trị. + Phiêu lưu, mạo hiểm trong chính sách, bước đi và biện pháp cải tổ. Cải tổ chính trị không dựa trên thực trạng kinh tế, tiến hành “dân chủ công khai” mơ hồ. + Không có những biện pháp kịp thời để giải quyết những vấn đề nghiêm trọng trong đời sống kinh tế xã hội và chính trị. + Phủ nhận đấu tranh giai cấp cách mạng, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản. + Để xảy ra mâu thuẫn, xung đột, nội chiến dân tộc sắc tộc gay gắt, dẫn tới sự tan rã của Nhà nước Liên bang Xô Viết. Do sự yếu kém về năng lực, sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận của một bộ phận Đảng viên đã làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ. - Nguyên nhân khách quan: những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế. * Ngoài những nguyên nhân khái quát chung, mỗi nước cũng có những nguyên nhân riêng biệt, đặc thù dân tộc. Đối với các nước Đông Âu: - Mô phỏng theo mô hình Liên Xô xây dựng CNXH mà không xuất phát từ điiều kiện, đặc điểm lịch sử, dân tộc, dẫn tới sự lệ thuộc toàn diện vào Liên Xô. - Truyền thống dân chủ tư sản in đậm trong tư tưởng nhân dân. Việc tiến hành họp nhất các Đảng Công nhân diễn ra vội vàng, thiếu nguyên tắc, chứa đựng những nguy cơ chia rẽ sâu sắc. - Các thế lực chống đối CNXH rất mạnh: công chức, sĩ quan, tư sản, địa chủ, binh lính chế độ cũ, nhà thờ Thiên chúa giáo, Đảng Xã hội Dân chủ... Nằm chờ, khi có thời cơ sẽ nổi dậy. - Do chính sách “không can thiệp” của Góocbachóp đã tạo điều kiện cho các thế lực phản động, chống phá cách mạng hoạt động trong lúc các nước Đông Âu. Sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông đã gây ra những hậu quả hết sức nặng nề. Đó là một tổn thất chưa từng có trong phong trào cộn sản, công nhân quốc tế và của CNXH thế giới. Tuy nhiên đây chỉ là sự sụp đổ của một mô hình CNXH chưa khoa học chứ không phải của hình thái kinh tế xã hội mới, CNXH mà Mác và Ăngghen đã nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Từ những cơ sở ấy, các nước XHCN còn lại, trong đó có Việt Nam đã rưt ra được nhiều bài học kinh nghiệm xương máu, đưa công cuộc cải cách, đổi mới đi tới thắng lợi.
File đính kèm:
- Bai_2_Lien_Xo_va_cac_nuoc_Dong_Au_tu_giua_nhung_nam_70_den_dau_nhung_nam_90_cua_the_ki_XX.doc