Giáo án ôn thi Ngữ văn vào lớp 10 theo khung chuẩn

TẬP LÀM VĂN

Đề bài: suy nghĩ về bài thơ “bếp lửa” của Bằng Việt

1. Tìm hiểu đề:

- Kiểu bài: Nghị luận về một bài thơ

- Vấn đề nghị luận: tình cảm bà cháu

- Cách nghị luận: suy nghĩ: xuất phát từ sự cảm thụ cá nhân đối với bài thơ, khái quát thành những thuộc tính tinh thần cao đẹp của con người.

 

docx204 trang | Chia sẻ: dung89st | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo án ôn thi Ngữ văn vào lớp 10 theo khung chuẩn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiều “nắng mưa” vất vả. Bà cần mẫn lo toan, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình. Bà đã nhóm bếp lửa trong suốt cuộc đời bà, đã trải qua nắng mưa “mấy chục năm rồi”. Bà không chỉ nhóm bếp lửa bằng đôi bàn tay già nua, gầy guộc, mà là bằng tất cả tấm lòng đôn hậu “ấp iu nồng đượm” của bà đối với con cháu.
 + Điệp từ “nhóm” được nhắc đi nhắc lại 4 lần trong 4 câu thơ đan kết với những chi tiết rất thực có điểm chung là cùng gắn với hành động nhóm bếp, nhóm lửa của bà nhưng lại khác nhau ở những ý nghĩa cụ thể: khi thì nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh buốt của sương sớm; đến câu tiếp theo thì đã vừa nhóm bếp luộc khoai, luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng mà như còn đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình yêu thương vô hạn của bà. Đến câu tiếp theo thì lòng bà còn mở rộng hơn cùng với nồi xôi gạo mới mùa gặt là tình cảm xóm làng đoàn kết, gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi và đến câu thứ tư thì hoàn toàn mang nghĩa trừu tượng: nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ. Tình cảm của bà bao la giản dị như khoai sắn và cũng đậm đà như khoai sắn.
+ Các từ ngữ “ấp iu nồng đượm”, “yêu thương”, “ngọt bùi”, “chung vui” thể hiện sự tinh luyện của một ngòi bút nghệ thuật, đã diễn tả thật hay tình thương, niềm vui, sự no ấm, hạnh phúc mà bà đã mang lại cho con cháu. Bà đã “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”, nuôi dưỡng và làm bừng sáng những ước mơ, những khát vọng của đàn cháu nhỏ. Bếp lửa bà nhen đã nhóm lên ngọn lửa của tình thương ấm áp. Chính vì thế mà nhà thơ đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc sự kì diệu, thiêng liêng: “ÔI! Kì lạ và thiêng liêng - Bếp lửa”. Như vậy, từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một “niềm tin dai dẳng” về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa. Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc, người cháu nhận ra bao điều “kì diệu và thiêng liêng”. Ngọn lửa từ bàn tay bà với bao nhiêu yêu thương trìu mến đã nuôi lớn tuổi thơ cháu. 
- Nhưng nhà thơ còn nhận ra một điều sâu xa nữa: Cái bếp lửa mà bà nhen sớm sớm chiều chiều” không phải chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài mà đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, ngọn lửa của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Bởi vậy, từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa”, với ý ngihã trừu tượng khái quát: 
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng” 
- Ngọn lửa là những kỉ niệm lòng, niêm tìn thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến. Điệp ngữ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào. Tình thương, đức hi sinh, tính kiên trì nhẫn nại của bà là nguồn nhiên liệu vô tận làm bừng sáng lên ngọn lửa vĩnh cửu truyền cảm ấy. Như thế, hình ảnh bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa - ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
c. Niềm thương nhớ của cháu:
- Đứa cháu năm xưa giờ đã trưởng thành
“ Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu.
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
.. Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa”
- Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với những điều mới mẻ. Cháu đã được sống với những niềm vui rộng mở, nhưng giữa “ngọn khói trăm tàu, ngọn lửa trăm nhà, cháu vẫn không thể quên bếp lửa của bà, vẫn không nguôi nhớ thương bà. Mỗi ngày đều tự hỏi: “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?, mỗi ngày đều nhớ về bà và bếp lửa của bà. Hình ảnh ấy đã trở thành kỉ niệm thiêng liêng làm ấm lòng, nâng đỡ cháu trên những bước đường đời. 
- Ngôn ngữ thơ dào dạt, lan toả như lửa ấm hay đây chính là cảm xúc dâng trào của nhân vật người cháu, của nhà thơ? Mỗi chữ cứ như hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương, ơn nghĩa. Đó là đạo lí cội nguồn của dân tộc Việt Nam chúng ta trong quan hệ gia đình – con cháu đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên: “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm”.
d. Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa triết lí thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình đài rộng của cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là một biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước.
 Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận; giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm. Bài thơ như ngọn lửa ấm áp toả sáng và cháy mãi trong tình cảm của người đọc.
5. Tổng kết:
Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà. Tình cảm ấy là biểu hiện cụ thể và đẹp đẽ của tình cảm gắn bó với gia đình, với quê hương, đất nước.
Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
B. Câu hỏi luyện tập
Câu 1: Hãy nêu nhận xét về hình ảnh tượng trưng của hình tượng “bếp lửa”
Câu 2: Hình ảnh bếp lửa gợi lại những kỉ niệm nào của bà và cháu? Vì sao người cháu có “ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, có niềm vui trăm ngả” mà vẫn không quên nhắc về bếp lửa?
Câu 3: Phân tích giá trị nghệ thuật của điệp từ “nhóm” trong khổ thơ sau 
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
- Điệp từ “nhóm” được nhắc lại 4 lần làm toả sáng hơn nét “kì lạ” và thiêng liêng bếp lửa. Bếp lửa của tình bà đã nhóm lên trong lòng cháu bao điều thiêng liêng, kì lạ. Từ “nhóm” đứng đầu mỗi dòng thơ mang nhiều ý nghĩa: Từ bếp lửa của bà những gì được nhóm lên, khơi lên? 
+ Khơi dậy tình cảm nồng ấm
+ Khơi dậy tình yêu thương, tình làng nghĩa xóm, quê hương
+ Khơi dậy những kỉ niệm tuổi thơ, bà là cội nguồn của niềm vui, của ngọt bùi nồng đượm, là khởi nguồn của những tâm tình tuổi nhỏ.
=> Đó là bếp lửa của lòng nhân ái, chia sẻ niềm vui chung.
Câu 4: Cho câu thơ: 
 “lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”
Hãy chép chính xác 7 câu thơ tiếp theo.
Đoạn thơ vừa chép nằm trong bài thơ nào? của ai?
Từ “nhóm” trong đoạn thơ vừa chép có những nghĩa nào?
Hình ảnh bếp lửa và ngọn lửa được nhắc đến trong bài thơ có ý nghĩ gì?
Câu 5:Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nghĩ về hình ảnh người bà trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt.
Câu 6: Cho câu chủ đề sau:
Bên cạnh đó tác giả còn khắc hoạ rất đậm nét nhân vật trữ tình người cháu với những cảm nhận sâu sắc về bà và bếp lửa. 
Hãy hoàn thành đoạn văn trên bằng đoạn văn tổng phân hợp có độ dài khoảng 12 -> 15 câu. Trong đoạn văn có sử dụng một phép liên kết, 1 thành phần biệt lập, gạch chân chỉ rõ.
Câu 7: So sánh hai bài thơ “bếp lửa”của Bằng Việt và “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh (ngữ văn 7, tập một) để chỉ ra điểm giống nhau và khác nhau về đề tài, nội dung cảm xúc và kỉ niệm, cách biểu đạt và suy nghĩ.
Câu 8: Trong bài thơ, hai lần tác giả dùng cụm từ “biết mấy nắng mưa” để nói về cuộc đời bà. Chép hai câu thơ có cụm từ ấy trong bài thơ và nêu ý nghĩa của cụm từ này, liên hệ với môộ số ví dụ trong thơ ca có sử dụng từ “nắng, mưa” để minh hoạ.
Câu 9: Tìm những hình ảnh trong văn học có ý nghĩa biểu tượng như hình ảnh bếp lửa trong bài thơ.
Câu 10: Cho câu chủ đề sau: Từ những hoài niệm về tuổi thơ và bà, người cháu suy ngẫm về cuộc đời bà và về lẽ sống của bà.
Hãy hoàn thành tiếp đoạn văn theo cách diễn dịch, trong đoạn có sử dụng một câu bị động, một thành phần biệt lập.
TẬP LÀM VĂN
Đề bài: suy nghĩ về bài thơ “bếp lửa” của Bằng Việt
1. Tìm hiểu đề: 
- Kiểu bài: Nghị luận về một bài thơ
- Vấn đề nghị luận: tình cảm bà cháu
- Cách nghị luận: suy nghĩ: xuất phát từ sự cảm thụ cá nhân đối với bài thơ, khái quát thành những thuộc tính tinh thần cao đẹp của con người.
2. Tìm ý: 
- tình yêu quê hương nói chung trong các bài thơ đã học, đã đọc
- tình yêu quê hương với nét riêng trong bài thơ “bếp lửa” của Bằng Việt.
3. Lập dàn ý: 
A. Mở bài: 
Cách 1.
- Bằng Việt thuộc các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, dung dị, thiên về việc khai thác những kỉ niệm và ước mơ của tuổi thơ qua đó thể hiện những tình cảm rộng lớn yêu thương. Tiêu biểu cho hồn thơ ông là bài thơ “Bếp lửa”- một trong những thành công đáng kể nhất. 
- Bài thơ viết năm 1963 – khi tác giả đang là sinh viên du học tại Liên Xô. Trong hoàn cảnh sống xa quê hương, xa người thân, những kỉ niệm về tuổi thơ, về quê hương có điều kiện được ươm mầm, nảy nở. Qua dòng thơ hồi tưởng kết hợp miêu tả, tự sự, bình luận, nhà thơ giúp ta cảm nhận được những tình cảm, cảm xúc chân thành của nhân vật trữ tình - người cháu – và hình ảnh người bà giàu tình thương, giàu đức hi sinh. 
Cách 2: Trong cuộc đời mỗi con người, kỉ niệm tuổi thơ bao giờ cũng đẹp đẽ, thân thương và chứa chan tình nghĩa. Bởi vì những kỉ niệm ấy thường gắn bó với những người ruột thịt, gần gũi: mẹ ta, cha ta, anh chị em, ông bà, bè bạn. Với Bằng Việt, kỉ niệm về tình bà cháu chắc là sâu nặng lắm, thân thiết lắm mới khơi nguồn cho dòng cảm xúc, ấm lòng, để sáng tạo một bài thơ đặc sắc: Bếp lửa. Có thể đấy là những kỉ niệm riêng của nhà thơ, song đọc bài thơ, chúng ta vẫn được sưởi chung với ông hơi lửa của tình người giàu ân nghĩa, một bếp lửa kì diệu và thiêng liêng!
B. Thân bài: 
1. Giới thiệu chung.
Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh người bà với sự chăm sóc, lo toan, vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu. Từ kỉ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối cùng người cháu muốn gửi niềm nhớ mong về với bà. Mạch cảm xúc của bài thơ là đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Bài thơ là lời của người cháu ở nơi xa nhớ về bà và những kỉ niệm với bà, nói lên lòng kính yêu và những suy ngẫm về bà. 
1. Những hồi tưởng về bà và tình bà cháu. 
* Sự hồi tưởng được bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa thời thơ ấu :
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
+ Giọng điêụ sâu lắng, ba tiếng “một bếp lửa” đã trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ. Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” là hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong mỗi gia đình từ bao đời. Chờn vớn: từ láy tượng hình vừa giúp ta hình dung làn sương sớm đang bay nhè nhẹ quanh bếp lửa vừa gợi cái mờ nhoà của hình ảnh kí ức theo thời gian. Ấp iu: là một sáng tạo mới mẻ của nhà thơ trẻ. Đó là sự kết hợp và biến thế của hai từ “ấp ủ” và “nâng niu”. “Ấp iu” gợi ra bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm bếp lửa lại rất chính xác với công việc nhóm bếp cụ thể.
- Hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên đánh thức dòng cảm xúc hồi tưởng của cháu về bà, người nhóm lửa, người nhóm bếp lặng lẽ, âm thầm mỗi sớm mai: ”Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Đọng lại trong mấy dòng thơ ấy là chữ “thương”, trong lòng đứa cháu trào dâng cảm xúc thương bà bởi bếp lửa của bà, bếp lửa của một cuộc đời đã trải qua “biết mấy nắng mưa” – nghèo khổ, vất vả. Chữ “thương” dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán, làm cho cảm xúc lan toả, thấm sâu vào hồn người.
* Từ đó, bài thơ gợi lại cả một thời thơ ấu bên người bà: 
- Cả một thời thơ ấu nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn bỗng sống lại:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945: “cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ” (Chế Lan Viên). Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” – cái đói kéo dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc cùng với người bố đánh xe chắc cũng gầy khô có mối lo giặc tàn phá xóm làng, có những hoàn cảnh chung của nhiều gia đình Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp: mẹ và cha công tác bận không về, cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà, sớm có ý thức tự lập, sớm phải lo toan. Giọng thơ trĩu xuống, nao lòng người đọc.
- Ấn tượng nhất là mùi khói bếp: “Khói hun nhèm mắt cháu. Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. “Mùi khói” rồi lại “khói hun” Nhà thơ đã chọn được một chi tiết thật sát hợp vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ- khói nhiều cay, khét vì củi ướt vì sương nhiều và lạnh - và vừa biểu hiện thấm thía tình cảm, sự xúc động khi tỏ, khi mờ, khi da diết bâng khuâng, lúc xót xa thương mến. Nghĩ mà thương tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Hai câu thơ có giá trị biểu cảm cao! Chắc hẳn cảm xúc quá khứ phải phải sâu sắc lắm mới có thể trỗi dậy mạnh mẽ thế. Cho dù năm tháng trôi qua nhưng kí ức ấy trở thành một vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai. Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ ở những chi tiết, ngôn từ chân thực và giản dị như thế. Cái “bếp lửa” kỉ niệm của ông chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói.. mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thực và thấm đẫm biết bao nghĩa tình sâu nặng. 
- Bếp lửa lại thổi hồng lên kỉ niệm của tuổi thiếu niên được khi quê hương, đất nước có chiến tranh. Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ thủ thỉ như giọng kể trong một câu chuyện cổ tích, có thời gian, không gian, có sự việc và nhân vật cụ thể. 
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa.
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa.
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
+ Tám năm ròng, con số không lớn, nhưng ngày tháng cứ kéo dài, ròng rã, nặng nề. Bởi vì “những ngày ở Huế ấy, cuộc sống gia đình thật hoang vắng, quạnh hiu. Bố mẹ đi công tác xa, bận không về. Chỉ còn hai bà cháu cặm cụi bên nhau, “nhóm lửa” mỗi sớm, mỗi chiều trong tiếng tu hú kêu. 
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen”. Bên bếp lửa: “bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”, “bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
+ Nếu trong kỉ niệm hồi bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất của đứa cháu là “mùi khói” thì đến đây, ấn tượng đấy là “tiếng tu hú kêu”. Trong mười một câu thơ mà có tới 5 lần tiéng tu hú. Lúc mơ hồ văng vẳng từ “những cánh đồng xa” lúc gần gũi “nghe sao mà tha thiết”, tiếng tu hú như san thở, sẻ chia. Có lúc nó gióng giả, dồn dập, “kêu hoài”.Tiếng chim tu hú là tiếng chim quen thuộc của đồng quê mỗi độ vào hè. Tiếng chim râm ran trong vườn lá, trên cánh đồng cứ khắc khoải kêu mãi, kêu hoài, trong hiện thực đã tha thiết, tiếng chim trong nỗi nhớ như giục giã, khắc khoải một điều gì da diết lắm, khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong.
=> Đưa tiếng chim tu hú - một âm thanh rất đồng nội ấy vào thơ, thi sĩ Bằng Việt quả là một tâm hồn thơ gắn bó sâu nặng với quê hương, tổ quốc Việt Nam.
- Trong các cung bậc khác nhau của tiếng chim tu hú, tâm trạng của người cháu mỗi lúc một thiết tha, mạnh mẽ, hình ảnh người bà hiện rõ dần. Bên bếp lửa hồng, bà kể chuyện, chuyện đời thực ngày nay, chuyện cổ tích ngày xưa. Rồi “bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Bà đã thay thế vai trò của người mẹ hiền luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên.Từng việc, từng việc, nhỏ nhẹ, âm thầm, hai bà cháu từng ngày, từng tháng và “tám năm ròng” cùng nhau “nhóm bếp lửa” để nuôi dưỡng thể chất và tâm hồn, trí tuệ cho cháu. Chữ “bà” và “cháu” được điệp lại bốn lần gợi tả tình bà và cháu quấn quýt yêu thương. Được sống trong tình thương là hạnh phúc, người cháu tuy sống xa cha mẹ, tuy gặp nhiều thiếu thốn khó khăn, nhưng em thật hạnh phúc khi được sống trong vòng tay yêu thương của bà. Vì thế cháu mới cảm thấy một cách thiết tha nồng hậu: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
- Đứa cháu lớn dần, cuộc sống khó khăn hơn. Song nghị lực của bà vẫn bền vững, tấm lòng của người bà vẫn mênh mông. Bà là hiện thân cụ thể, sinh động nhất cho hậu phương lớn. Sống trong những năm dài của chiến tranh thế nhưng bà vẫn vững lòng trước mọi tai hoạ, thử thách: 
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi.
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi.
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh.
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu bố còn việc bố.
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
 Hình ảnh người bà bỗng trở nên cao lớn vĩ đại hơn trong những vần thơ hết sức chân thực. Chúng ta vô cùng thấm thía vẻ đẹp tinh thần của cả một thế hệ người VN trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vừa qua. Đó là tình đoàn kết xóm làng, là ý chí nghị lực của những người mẹ, người bà ở hậu phương hướng ra tiền tuyến và đẹp hơn hết là vẻ lung linh, bất diệt của tình bà cháu hoà trong tình yêu quê hương, Tổ quốc. 
* Do đó, không phải ngẫu nhiên, từ hình ảnh “bếp lửa”, đến đây lời thơ bừng sáng thành “ngọn lửa”.
 “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen.
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn.
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
+ Nếu “bếp lửa” trong những câu thơ trên chủ yếu biểu hiện cuộc sống âm thầm, lặng lẽ trong căn nhà nhỏ hẹp của hai bà cháu thì “Ngọn lửa” mà “bà nhen mỗi sớm mỗi chiều” từ dòng thơ này mang ý nghĩa khái quát, rộng lớn hơn. Đó là sức sống, là tình thương, là niềm tin của bà trong cuộc sống hai bà cháu, cuộc sống gia đình và rộng ra là đối với toàn dân tộc, với công cuộc chiến đấu lúc bấy giờ. Điệp từ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào. Tình thương, đức hi sinh, tính kiên trì, nhẫn nại của bà là nguồn nhiên liệu vô tận làm bừng sáng lên ngọn lửa vĩnh cửu, truyền cảm ấy. Hình ảnh “ngọn lửa” toả sáng câu thơ, lung linh chân dung của bà, làm ấm lòng trái tim mỗi bạn đọc chúng ta. “Ngọn lửa” biểu tượng của sự sống muôn đời bất diệt, không chỉ là của riêng bà trong kỉ niệm của cháu ở bài thơ này, mà còn là biểu tượng chung cho toàn dân tộc, đất nước ta trước kia, thắp sáng đến tận ngày nay. 
2. Những suy ngẫm về bà và hình ảnh bếp lửa.
- Ở đoạn thơ cuối, kỉ niệm tuổi thơ lắng dần, từ cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ đối với bà, thơ chuyển sang những suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, về ân sâu nghĩa nặng của người thanh niên trưởng thành ngày nay đối với bà của mình và thế hệ ông bà, cha mẹ nói chung.
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.
“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
 - Từ đầu bài thơ, hình ảnh bà luôn song hành cùng hình ảnh bếp lửa. Đến đoạn cuối này, người bà và bếp lửa như đã hoà làm một. Chính vì thế mà nhà thơ đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc sự kì diệu, thiêng liêng: “Ôi kì lạ và thiêng liêng - Bếp lửa!”
+ Điệp từ “Nhóm” được nhắc lại bốn lần mang bốn nghĩa khác nhau, bồi đắp cao dần, toả sáng dần dần. Tác giả - người cháu trong bài thơ như đã nhận ra một điều sâu xa rằng: Bếp lửa được bà nhen lên mỗi sớm mỗi chiều ấy không phải chỉ bằng nhiên liệu từ bên ngoài mà còn chính là được nhóm lên từ ngọn lửa trong lòng bà - ngọn lửa của sự sống, lòng yêu thương và niềm tin. ..Vì thế, khi bà “nhóm bếp lửa” cũng là lúc nhóm niềm yêu thương, bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng ấm, “nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”, bà mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm, quê hương. Và cuối cùng, người bà kì diệu ấy “Nhóm dậy”, “khơi dậy”, giáo dục, thức tỉnh tâm hồn và sức sống thanh xuân thơ ấu để đứa cháu được đi xa, được thấy “ngọn trăm tàu”, để có “lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”. Như thế, hình ảnh bà không những biểu tượng cho người “nhóm lửa”, “giữ lửa” mà còn biểu tượng cho những người, lớp cha ông, truyền lửa - truyền ngọn lửa c

File đính kèm:

  • docxGiao_an_on_thi_vao_10_theo_khung_chuan_2015_20150725_033214.docx