Giáo án Ngữ văn 11 - Ôn tập thi học kì II

 TN trong thơ là HTQ và Lí Bạch gắn vs thế giới bao la vô tận ko có điểm dừng, cánh chim chới vs giữa ko trung chẳng biết đi đâu về đâu.

+ Ở đây HCM đã hiện thực hóa những hình ảnh ước lệ truyền thống bởi đó là cảnh thực gắn vs cuộc đời thực của con người.

- Vì sao trên hành trình chuyển lao có nhiều cảnh đẹp đập vào mắt nhưng ngòi bút thi nhân chỉ chấm fá vào bức tranh ấy: 1 nét vẽ chim, 1 nét vẽ mây. Phải chăng giữa con người và cảnh vật có nét tương đồng?

+ Cánh chim dang rộng đôi cánh khát khao tìm về tổ ấm hay chính con người đang mong mỏi nhanh đến chỗ dừng chân.

+ Và đám mây cô đơn lẻ loi giữa ko trung cũng như người thôi: lẻ loi, cô đơn trên đất khách quê người giữa ko gian mênh mông vời vợi.

+ Giữa TN và người tù có mối giao hòa đồng cảm:

*Người tìm đến cảnh để chia sẻ nỗi niềm.

*Cảnh tìm đến người để động viên, an ủi, tiếp sức.

*HCM bao giờ cũng vậy:

“Nâng niu tất cả chỉ quên mình” (Tố Hữu)

b 2 câu cuối: bức tranh cuộc sống con người

(Chuyển ý) Bài thơ mở ra = bức tranh TN đẹp nhưng buồn, khép lại = bức tranh cuộc sống con người giản dị, ấm áp rất đỗi thân thương:

 

doc12 trang | Chia sẻ: halinh | Lượt xem: 3042 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Ngữ văn 11 - Ôn tập thi học kì II, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện tại với hoàn cảnh trong sáng, lành mạnh dành cho thiên nhiên , con người xứ Huế.
c. . Tóm lại 
_ Bài thơ ra đời khi căn bệnh phong –căn bệnh trầm kha đang hành hạ thân xác MT nhưng tình yêu thiên nhiên, yêu con người , yêu cuộc sống làm tiêu tan bệnh tật khổ đau.
_Vì vậy “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng đáng là bài thơ với hồn thơ trong trẻo nhất trong đời thơ MT.
MỘ 
A.Kiến thức cơ bản:
 Tác giả, tác fẩm, hoàn cảnh ra đời:
Suốt “14 năm tê tái gông cùm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, HCM bị giải tới giải lui qua hơn 30 nhà lao thuộc 13 huyện nhà lao tĩnh Quảng Tây – Trung Quốc.
Hành trình chuyển lao gian khổ đó, người đã quên nỗi đau thể xác, trái tim rộng mở vs thế giới xung quanh.
1 lần trên hành trình chuyển lao từ Tĩnh Tây ¦ Thiên Bảo, dõi nhìn vũ trụ bao la, bao xúc cảm trào dâng “Mộ” ra đời.
Bài thơ trích trong tập “Nhật kí trong tù”
II..Giá trị khát quát:
Nghệ thuật:
Bằng màu sắc cổ điển kết hợp vs hiện đại.
Nội dung:
Bài thơ phác họa bức tranh thiên nhiên vùng sơn cước mênh mông mà đầm ấm.
Vẻ nên chân dung người tù – người chiến sĩ cộng sản HCM vs trái tim nhân ái bao la, phong thái ung dung tự tại, lòng lạc quan CM sáng ngời.
Phân tích:
Thể thơ: 
Vs 28 chữ lấp lánh trên 4 dòng tứ tuyệt, “Mộ” mang dáng dấp Đường thi, Tống thi.
Nhan đề:
Ngay từ nhan đề bài thơ, HCM dẫn người đọc đến vs cảm hứng quen thuộc trong thơ xưa, gợi nhớ những bài thơ viết về cảnh chiều hôm và người lữ thứ.
Đó là:
Buổi chiều trên đỉnh đèo ngang khi bà Huyện Thanh Quan vào Huế dạy học cho các cung nữ: “Bước tới đèo ngang bóng xế tà” (Qua đèo Ngang)
Đó là buổi chiều vs nỗi nhớ nhà man mác:
“Chiều trời lảng vảng bóng hoàng hôn”
(Chiều hôm nhớ nhà – bà Huyện Thanh Quan)
Buổi chiều thường gieo vào lòng người giọt buồn, giọt thương, giọt nhớ.
HCM cũng đến vs buổi chiều, lấy cảm hứng trên mảnh đất vùng sơn cước nhưng ở đây:
Người lữ khách – NV trữ tình ấy chính là người tù đang sống trong hoàn cảnh đặc biệt: đi đày trên đất khách quê người.
Liệu cảnh tù đày gian khổ “53 cây số mỗi ngày” có giết chết cảm hứng thi ca trong lòng người hay ko.
Phân tích:
2 câu đầu: bức tranh TN vùng sơn cước
(Chuyển ý) mở đầu bài thơ:
Quyện điểu quy lâm … thiên ko”
2 dòng thơ ngắn gọn dẫn người đọc đến vs TN vùng núi lúc chiều hôm. Đó là lúc mặt trời khuất dần sau dãy núi xa xa, những tia nắng yếu ớt, ảm đạm 1 ngày tan dần báo hiệu màn đêm sắp buông xuống. 
Quên nỗi đau thể xác, trái tim người tù rộng mở ¦ hướng tới ko gian bao la vời vợi:
1 cánh chim nhỏ nhoi, đơn độc, dang đôi cánh khát khao tìm về tổ ấm sau 1 ngày mệt mỏi chao đảo giữa ko trung.
1 đám mây chầm chậm, nhè nhẹ lững lờ trôi.
 – TN dưới ngòi bút thi nhân đẹp đẽ, thơ mộng nhưng đượm buồn.
Cánh chim, chòm mây:
Đó là những hình ảnh ước lệ trong thơ cổ chợt ùa về trong bài thơ:
“Ngàn mái gió cuốn chim bay mỏi”
(bà Huyện Thanh Quan)
“Chúng điểu cao phi tần
Cô vân độc khứ nhàn”
(Lí Bạch)
– TN trong thơ là HTQ và Lí Bạch gắn vs thế giới bao la vô tận ko có điểm dừng, cánh chim chới vs giữa ko trung chẳng biết đi đâu về đâu.
Ở đây HCM đã hiện thực hóa những hình ảnh ước lệ truyền thống bởi đó là cảnh thực gắn vs cuộc đời thực của con người.
Vì sao trên hành trình chuyển lao có nhiều cảnh đẹp đập vào mắt nhưng ngòi bút thi nhân chỉ chấm fá vào bức tranh ấy: 1 nét vẽ chim, 1 nét vẽ mây. Phải chăng giữa con người và cảnh vật có nét tương đồng?
Cánh chim dang rộng đôi cánh khát khao tìm về tổ ấm hay chính con người đang mong mỏi nhanh đến chỗ dừng chân.
Và đám mây cô đơn lẻ loi giữa ko trung cũng như người thôi: lẻ loi, cô đơn trên đất khách quê người giữa ko gian mênh mông vời vợi.
Giữa TN và người tù có mối giao hòa đồng cảm:
*Người tìm đến cảnh để chia sẻ nỗi niềm.
*Cảnh tìm đến người để động viên, an ủi, tiếp sức.
*HCM bao giờ cũng vậy:
“Nâng niu tất cả chỉ quên mình” (Tố Hữu)
2 câu cuối: bức tranh cuộc sống con người 
(Chuyển ý) Bài thơ mở ra = bức tranh TN đẹp nhưng buồn, khép lại = bức tranh cuộc sống con người giản dị, ấm áp rất đỗi thân thương:
“Sơn thôn … lô dĩ hồng”
(“Cô em … rực hồng”)
Phân tích:
Nhận xét bản dịch:
Đáng tiếc bản dịch thơ lại thêm “tối” fá quy luật vận động vốn có trong thơ HCM.
Thơ Bác ko tả mà gợi, ko cần nói “tối” nhưng hình ảnh cánh chim bay về tổ ấm báo hiệu màn đêm sắp buông xuống.
Trở lại phần phiên âm:
Bằng phép tu từ đảo ngữ, điệp ngữ liên hoàn “ma bao túc”, “bao túc ma”.
2 câu cuối vừa gợi hình vừa gợi cảm:
*Gợi vòng quay đều đặn của cối xay ngô.
*Tái hiện chân dung người thiếu nữ vùng sơn cước vs cs lam lũ vất vả.
*Vòng quay của cối xay ngô hay cũng chính vòng quay đều đặn của cs. Vòng quay đó mang niềm vui của … đến vs người tù.
2 hình ảnh trung tâm đẹp nhất trong 2 câu thơ cuối chính là “Sơn thôn thiếu nữ” và “lô dĩ hồng”.
Hình ảnh “Sơn thôn thiếu nữ” hiện lên rất đỗi bình dị, thân quen:
*Mặc dù bài thơ fản fất dư ba hồn thơ cổ điển nhưng con người xuất hiện trong bức tranh ko fải là hình ảnh ước lệ mà ta đã gặp trong văn học trung đại như: ông Ngư, chú tiều, mục tử.
*Sự xuất hiện “Sơn thôn thiếu nữ” làm cho bức tranh đẹp, thơ mộng, tràn trề sức sống.
*Vẻ đẹp của thiếu nữ vùng sơn cước càng nhân lên bởi đó là vẻ đẹp của con người lđộng khỏe khoắn. HCM dường như quên đi khổ đau của riêng mình, chung vui sẻ chia nỗi vất vả vs người dan trên nước bạn = trái tim nhân ái bao la.
Bài thơ khép lại = hình ảnh đẹp, lãng mạng “lô dĩ hồng” được coi là nhãn tự của bài thơ.
Chữ “hồng” đứng cuối bài thơ tỏa sáng câu thơ, chiếu sáng 4 dòng tứ tuyệt.
Bếp than vs màu hồng xóa tan ko khí âm u tĩnh mịch của đêm tối.
Màu đỏ của bếp than nhuốm lên bóng đêm, cả thân hình, cả lao động cuả cô gái.
Màu hồng làm tan biết cảm giác mệt mỏi, sưởi ấm lòng tù nhân.
Màu hồng của bếp lửa hay chính trái tim người cộng sản đag tỏa sáng trong đêm? Màu hồng ấy tỏa ra từ 1 tâm hồn thép, từ trái tim lạc quan CM mà hơn 1 lần ta đã gặp màu hồng ấy trong thơ của người:
“Phương màu trắng chuyển sang màu hồng”
(“Tảo giải)
Hình tượng thơ: 
TN trong bài thơ vận động từ chiều về tối, từ ngày vào đêm từ ánh sáng bước vào bóng tối. 
Nhưng hình tượng thơ ngược lại vận động từ bóng tối (3 câu đầu) hướng tới ánh sáng, sự sống, tương lai (câu cuối).
N Mỗi lời thơ ý thơ là sự giao thoa hồn thơ cổ điển kết hợp vs hiện đại.
Tổng kết: 
Bằng vài nét chấm fá lấy động tả tĩnh, lấy điểm vẽ diện, dùng mây nẩy trăng, bài thơ fác họa bức tranh TN vừa mênh mông vời vợi, vừa ấm áp trữ tình.
Ẩn sau mỗi lời thơ ý thơ là bóng dáng người tù chân vướng xiềng xích vẫn bước những bước đi ung dung tự tại quên hẳn địa vị mình là người tù, lòng rộng mở hướng tơi TN con người = trái tim nhạy cảm và lòng nhân ái bao la.
Mộ mãi mãi tỏa sáng, ás một tâm hồn lớn, 1 trí tuệ lớn.
Đề 1: Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong Mộ.
Giải thích:
Nói đến vẻ đẹp cổ điển – hiện đại ta liên tưởng đến “bình cũ – rượu mới”.
Đến vs Mộ ta khám fá được sự kết hợp kì diệu đó “thứ rượu kì diệu trong chiếc bình tưởng như đã cũ”, khám fá được sự giao thoa kì diệu giữa 2 nét đẹp đó.
phân tích vẻ đẹp cổ điển trong bài: 
Vẻ đẹp cổ điển: vở ghi.
Bài thơ sdụng 1 số bút fáp quen thuộc: = vài nét chấm fá lấy động tả tĩnh, lấy điểm tả diện, dùng mây nẩy trăng, chỉ 1 cánh chim bay về tìm tổ ấm báo hiệu chiều buông, 1 nét vẽ chim, 1 nét vẽ mây tạo bức tranh TN đẹp.
Vẻ đẹp hiện đại:
Trong thơ xưa cánh chim chiều mất hút vào cõi hư vô nhưng cánh chim trong thơ Bác là cảnh hiên tại (ghi hết phần 2 câu cuối) [ hình ảnh cánh chim đám mây là những ẩn dụ có sức gợi rất lớn.
Trong bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp gắn vs sự vận động về tư tưởng, cảm hứng, hình tượng thơ (phân tích 2 câu cuối).
Sự hòa quyện giữa cổ điển và hiện đại:
Bài thơ là sự giao thoa kì diệu giữa fong vị thơ Đường nhưng vs hồn thơ thời đại đó là tiếng lòng của 1 chiến sĩ cất lên trong tiếng thơ của 1 thi sĩ.
Chỉ là bài thơ ngắn gọn hàm xúc nhưng có sức nén lớn về tư tưởng, tình cảm.
TRÀNG GIANG
Kiến thức cần nhớ:
Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác:
HC là nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Thơ của a thường gợi hứng từ thế giới vũ trụ bao la.
Vào một buổi chiều mùa thu 1938, HC đứng trên sông Hồng ngắm nhìn dòng sông mênh mang con nước, lòng chạnh nghĩ về kiếp người trôi nổi. Phút giây đó cảm xúc thăng hoa “Tràng giang” ra đời.
Đây là bài thơ tiêu biểu trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940.
Giá trị:
Nghệ thuật: 
= những vần thơ mang dáng dấp cổ kính, bình dị, thân quen.
Nội dung:
Bài thơ phác họa bức tranh cảnh vật vừa lớn lao vừa hoang sơ.
Mỗi lời thơ, ý thơ chứa chan nỗi buồn cô đơn và tình yêu nhà thơ dành cho đất nước, thiên nhiên.
Nhan đề và lời đề tựa
Nhan đề:
Phong vị cổ điển của bài thơ được gợi lên từ cách đặt nhan đề.
Tràng giang:
Gợi tả con sông vừa dài vừa rộng chảy mênh mông giữa đất trời.
Trong “Tràng giang” vừa có “Trường giang” vừa có “Đại giang”,
Mặc dù gợi hứng từ dòng sông Hồng nhưng bài thơ không miêu tả 1 con sông cụ thể nào.con sông trong bài thơ chảy từ 1 thuở xa xưa nào đó trong lịch sử; qua bao nền văn học,qua bao án cổ thi và giờ đây tiếp tục ngân lên trong thơ Huy Cận.
Lời đề tựa:
Cảm xúc của bài thơ gói gém trong lời đề tựa: bâng khuân trời rộng nhớ sông dài.
Câu thơ vén 1 bức màn dẫn người đọc tới 2 dòng cảm xúc:
Khám phá bức tranh thiên nhiên mênh mông vô tận “trời rộng”, “sông dài”.
Qua đó hiểu hơn nỗi cô đơn, nỗi buồn thương da diết trào dâng của Huy Cận.
Phân tích:
Khổ 1:
Mở đầu bài thơ: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Phân tích: 
Cách gieo vần “ang” thật độc đáo. Dưới ngòi bút HC, những con sóng trở thành những thực thể sống có linh hồn, tâm trạng.
Chỉ 7 chữ ngắn gọn, ý thơ mở ra trước mắt người đọc:
Không gian mênh mông vô tận, mặt nước chuyển động nhẹ nhàng, những vùng sóng, luồng nước cứ thế lan ra, gối lên nhau rong ruổi đến tận chân trời.
Muôn nghìn gợn sóng mang trong mình muôn nghìn nỗi buồn “buồn điệp điệp”. Phải chăng nỗi buồn, nỗi sầu của HC lan tỏa cả dòng sông, con nước.
Đối lập vs không gian bao la vời vợi, con nước là cảnh vật nhỏ bé, mong manh.
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Phân tích:
Bằng vài nét chấm phá nhỏ nhoi, HC tạo nên 1 bức tranh ấn tượng.
Con thuyền lênh đênh vô định giữa dòng nước hay chính HC cô đơn, lạc lõng giữa dòng đời.
Cảm xúc chia lìa của cảnh vật tiếp tục mở ra: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Giọng thơ nhẹ nhàng, êm ái, dòng nước được ví như con người chứa tâm trạng .
Nước sầu hay chính lòng HC “sầu trăm ngả”.
Quy luật của tạo hóa là vậy, thuyền và nước ko thể tách rời nhưng vì HC mang trong lòng nỗi sầu vạn cổ nên cảnh vật trong mắt gắn vs chia lìa, li biệt: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Trên dòng sông, con nước ấy HC đã ném 1 chi tiết chân thực của đời sống = hình ảnh nhỏ bé, tầm thường, vô phương, vô hướng của cành của lá:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Phép tu từ đảo ngữ sd khá đắt.
Câu thơ gợi trước mắt người đọc 1 cành củi khô dập dềnh trôi nổi trên sông nước. Cành củi khô ấy sớm lìa khỏi thân cây, lìa khỏi nguồn cội, chơi vơi, lạc lõng giữa dòng.
Mượn hình ảnh cành củi khô lạc giữa dòng như 1 ẩn dụ, HC gửi gắm nỗi buồn khi nghĩ tới thân phận nhỏ bé, bơ vơ, lạc lõng của mình trong xhội cũ.
Khổ 2:
Câu 1:
Thả lòng mình đến vs dòng sông con nước, HC cảm thấy chơi vơi ánh mắt nhà thơ hướng tới cuộc sống xung quanh, khát khao tìm kiếm ở đó điểm tựa:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”
Cặp từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” tạo dáng vẻ ít ỏi, lẻ loi, quạnh quẽ trước cảnh vật.
Ý thơ mở ra = những cồn đất nhỏ, vài cây cối lơ thơ, phất phơ trước cơn gió nhẹ → bức tranh phong cảnh vắng vẻ, tẻ nhạt đến ghê sợ.
Câu 2: làm sao để xóa bớt cảm giác đìu hiu, HC cần lắm 1 âm thanh mong manh của phiên chợ chiều để xóa đi sự hiu quạnh. Thế nhưng: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.
Buổi chiều thường gợi nỗi buồn, nỗi sầu. Khoảnh khắc thời gian đó + hưởng vs âm thanh nhỏ bé, lịm tắt trong phiên chợ chiều khiến nỗi buồn hiu hắt nhân lên gấp bội.
Chữ “đâu” đứng đầu dòng thơ ko fải để hỏi mà gợi sự tìm kiếm của con người khi đang chơi vơi ko tìm được điểm tựa, ko gian mênh mông vời vợi.
Câu 3 : ko tìm được niềm vui từ âm thanh cuộc sống bình dị, thân quen, HC tìm đến vũ trụ bao la, khát khao tìm niềm vui giữa không gian 1 chiều: “ Nắng xuống ... cô liêu”
Hàng loạt hình ảnh vừa cổ kính, vừa hiện đại gắn vs dòng sông, bến nước, = những nét fác họa đối lập (xuống- lên, dài- rộng) HC khám phá thiên nhiên = những nét độc đáo, ấn tượng.
Thiên nhiên ko tĩnh lặng mà vận động, những tia nắng tạo ko gian thoáng đãng, trong sáng đến kì diệu.
“Chót vót” vốn là từ dùng để chỉ độ cao nhưng HC đã phá sự đặc quyền trong cách dùng từ. “Sâu chót vót” là cảm giác có thực khi nhà thơ nhìn xuống dòng sông chợt thấy bèo trôi nổi dưới đáy sông. Cách khám fá kì diệu đó tạo ko gian vừa cao thăm thẳm vừa sâu hun hút. Trước thiên nhiên đó con người cảm thấy nhỏ bé, rợn ngợp.
Câu thơ kết khổ thơ: “Sông dài trời rộng bến cô liêu”
*Nhịp thơ 2/2/3 mỗi vế miêu tả 1 cảnh vật.
*Âm điệu câu thơ nhẹ nhàng, êm ái, 2 hình ảnh “sông dài”, “trời rộng” lấy lại ý lời đề tựa.
Dù những cảnh vật đều khám fá = những nét riêng biệt (sông – dài, trời – rộng, bến – cô liêu), nhưng tất cả đều gặp nhau ở trời mênh mông, rộng lớn, vắng vẻ, hiu hắt,. Thấp thoáng sau ko gian ấybóng dáng HC nhỏ bé chơi vơi giữa đời.
Khổ 3: 4 câu đầu ko tìm được niềm vui từ âm thanh phiên chợ chiều, chẳng tìm được điểm tựa trong ko gian 3 chiều, HC thả lòng mình về cuộc sống cánh bèo – về kiếp người fù sinh trôi nổi trên sông:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”
Thiên nhiên khám fá ko đơn lẻ mà lớp lớp “hàng nối hàng”, những lớp bèo trôi dạt, phiêu bạt lênh đênh trên mặt nước.
2 chữ “về đâu” ko phải là lời hỏi mà là sự ám ảnh, lo sợ từ đáy lòng của nhà thơ trước sự trôi nổi của cảnh vật.
Mượn cảnh vật để nói nỗi lòng, những cánh bèo lênh đênh, phiêu bạt trên dòng sông hay chính tâm hồn nhà thơ, tâm hồn bao thế hệ trẻ VN từ năm 1930 thế kỉ XX đang trôi nổi, chơi vơi giữa dòng đời.
3 câu cuối:
Thông thường dấu hiệu sự sống tồn tại trên sông là cây cầu, con đò, bởi nó đã xóa đi khoảng trời li biệt, nỗi buồn không xa cách,cây cầu,con đò không chỉ được con người xiết lại bên nhau mà nó còn chứa tình quê nồng ấm”quê hương là con đò nhỏ “thế nhưng trước mắt HC :
“Mênh mông...bãi vàng”
Nghệ thuật :
Âm điệu 3câu thơ trầm ,buồn, tĩnh lặng
Các tính từ mênh mông, lặng lẽ khởi đầu giọng thơ gợi không gian buồn.
Điệp từ “không” láy đi láy lại phủ nhận tuyệt đối .
Đoạn thơ như tiếng thở dài đọc lên ngao ngán đều não ruột .
Phân tích:
HC khát khao giao cảm vs đời vs cuộc sông nên tìm đến chuyến đò ngang,để tìm đên ai đó giải bày, chia sẻ nổi lòng: muốn thân mật giữa đôi bờ cách trở bằng nhịp cầu nhưng vô vọng , a chỉ buồn rầu ,tê tái nổi lòng.
Câu kết đoạn thơ mở ra bằng hình ảnh “bờ xanh “tràn trề sức sống , hi vọng nhưng màu xanh khép lại bằng màu vàng ảm đạm, tàn phai.
khổ 4:
đến vs đôi bờ , không xóa dc nỗi sầu a tìm đến vs thế giới vĩ mô rộng lớn gắn vs tầm cao vũ trụ: “lớp lớp ...bạc”
từ hình tượng “lớp lớp đứng đầu dòng thơ cùng phép tu từ đảo ngử gợi khung cảnh bao la hùng vĩ .
những đám mây mù không trôi không tan loãng ra mà kết đọng trên đỉnh núi vs màu trắng.
“núi bạc “vừa gợi sắc màu kủa mây , vừa gợi liên tưởng đến núi sầu kết đọng trong lòng nhà thơ
Câu 2 :Đối lập thế núi hùng vĩ là hình ảnh cánh chim nhỏ bé chở nặng bóng chiều, nghiêng mình chao đảo giữa không trung cố bay về chân trời xa vắng:
“ chim nghiêng bóng nhỏ cánh chiều sa”
Cánh chim vừa mang nét ước lệ tượng trưng vừa mang nét cách tân sáng tạo dưới ngòi bút của thi nhân 
Cánh chim như một nét chấm phá, nhỏ nhoi,đơn đôc giữa không gian ấy.
Hình ảnh cánh chim giữa buổi chiều buồn gợi tả nhớ tới bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà “(bà HUYỆN THANH QUAN)
“Ngày mai gió cuốn chim bay mỏi”
šcon người hai thế giới khác nhau nhưng gặp nhau ở nỗi buồn ,giao cảm trước thiên nhiên.
Hai câu cuối:
Bài thơ khép lại bằng hai dòng thơ chất chứa tâm trạng:
 “lòng quê ... nhớ nhà”
Xuyên suốt bài thơ HC sử dụng điêu luyện hàng loạt từ láy và đến đây 2 chữ “dờn dợn” tiếp tục ngân lên dể kết bài thơ. Câu thơ gợi trước mắt người đọc nhưng con sông lan tỏa , giao động giữa bờ sông .sóng nước hay chính sóng lòng nhưng con sông , những tình cảm chân thành tha thiết về quê hương đang trào dâng mạnh mẽ,dữ dội trong lòng nhà thơ.
Bài thơ kết lai bằng câu thơ lấy ý trong bài ”Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu :
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn 
Trên sông khói sống cho buồn lòng ai”
Mượn ý thơ cổ điển nhà thơ gửi gắm tình ý của mình.
Nếu trước đây “ Thôi Hiệu” khi xa quê nhà nhìn khói sóng trên sông nhà thơ chợt nhớ quê hương tha thiết .
HC không cần hoàng hôn , không cần có khói, không cần sự tác động của ngoại cảnh , a vẫn nhớ nhà bởi tình cảm đó thường trực, dào dạt ở trong anh.
Bài thơ khép lại không phải là nổi nhớ không trừu tượng mà rất cụ thể. Vs anh nhớ nhà chính là nhớ mảnh đất Hà Tĩnh nơi anh cất tiến khóc chào đời, nơi ấy: 
“Khi ta ở chính là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
Nhớ nhà chính là nhớ quê hương bởi lẽ quê hương là điểm tựa cõi lòng, là nơi trú ngụ bình yên nhất của HC giữa sóng gió cuộc đời.
Bài thơ khép lại = tấm lòng tha thiết, trong trẻo của a đối vs quê hương, đất nước.
– Tóm lại:
Cả bài thơ là nỗi cô đơn, nỗi buồn, nỗi sầu của HC.
Điều đáng quý, đáng trân trọng nhất khi buồn, khi cô đơn HC tìm đến thiên nhiên, tìm về quê hương. Vì thế tình cảm của anh đã trở thành ngọn “Lửa thiêng”, ngọn lửa đó cháy bùng lên, tiếp sức mạnh cho HC lại sáng.
TỪ ẤY
I. Hoàn cảnh ra đời, gtkg
a. Hoàn cảnh ra đời: Tố Hữu con chim đầu đàn của nền văn học CM. Nhắc đến anh, bạn đọc không thể không nhớ tới “ Từ Ấy” bài thơi nổi tiếng trong tập thơ cùng tên ra đời tháng 7/1938.
b. Giá trị khái quát
1. Nghệ thuật: bằng những vần thơ đậm cảm hứng lãn mạn cm.
2. Nội dung: + Bài thơ là tiếng reo vui khi bắt gặp lí tưởng cộng sản đồng thời là tuyên ngôn về lẽ sống , tuyên ngôn NT của người nghệ sĩ – chiến sĩ cách mạng.
II. Gợi ý phân tích:
Ấn tượng khái quát bài thơ:
Nghệ thuật : - 12 dòng thơ ngắn gọn, giàu nhạc điệu, nhịp thơ thay đổi linh hoạt cách gieo vần phong phú.
Tố Hữu mượn thể thơ thất ngôn- thể thơ truyền thống để gửi gắm tư tưởng tình cảm thiêng liêng trang trọng của chính mình.
Nội dung: bài thơ có 3 khổ quan hệ chặt chẽ vs nhau :
Khổ thơ đầu là tiếng reo vui của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cộng sản.
Hai khổ còn lại khẳng định sự kì diệu của lí tưởng cộng sản đối vs anh.
Lí tưởng cộng sản làm thay đổi nhận thức ( khổ I)
Lí tưởng cộng sản làm thay đổi tình cảm ( khổ III)
Vs Tố Hữu, lí tưởng của đảng là kim chỉ nam giúp anh không lầm đường lạc lối, biết sống, dám sống.
Phân tích:
a. Khổ I : niềm vui sướng say mê của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cách mạng
Hai câu thơ đầu:
Mở đầu bài thơ: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
-Phân tích : hai câu thơ như lời kể, nhà thơ kể lại một kỉ niệm không quên trong cuộc đời mình. “ Từ ấy” là mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quang trọng trong cuộc đời cm và đời thơ Tố Hữu. Trước “ Từ ấy” anh cùng bao tri thức tư sản đang “ băn khoăn tìm lẽ yêu đời” anh cần lắm hướng đi cho cuộc đời mình.
-Qua sách báo, qua tiếp xúc vs các chiến sĩ cộng sản TH đã trưởng thành về nhận thức. Thật tự hào kiêu hãnh 18t anh đã được đứng vào hàng ngũ của đảng. Từ ấy là bước ngoặc kì diệu của cuộc đời nhà thơ.
-Bao vui sướng say mê khi gặp lí tưởng của đảng anh gửi ở phép tu từ ẩn dụ cường điệu “ nắng hạ”, “ mặt trời chân lí”, “ chói qua tim”, gửi ở hai động từ rất tinh tế, ấn tượng “ bừng, chói”.
-Với anh lí tưởng cộng sản như nguồn sống mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ, mở ra chân trời ms về tư tưởng nhận thức tình cảm.
-Nguồn sáng ấy không phải là ánh thu vàng rọi, không phải là ánh sáng xuân diệu dàng mà là ánh sáng rực rỡ của 1 ngày “nắng hạ” được soi sáng bởi nguồn sáng kì diệu khác thường “ mặt trời chân lí”.
-Có thể nói lí tưởng cộng sản làm cho anh sáng mắt, sáng lòng, mở ra trước mắt anh 1 chân trời ms tràn trề niềm tin và hi vọng.
+Hai câu cuối:
- chuyển ý : là tư tưởng cộng sản không chỉ làm thay đổi nhận thức tình cảm trong anh mà còn phục sinh tâm hồn nhà thơ, đưa anh đến vs thế giới tươi non, tinh khôi.
“ hồn tôi 

File đính kèm:

  • docÔN TẬP THI HỌC KÌ II.doc
Giáo án liên quan