Giáo án Lịch sử 11 - Tiết 27 – Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX - Mai Văn Huy
Phong trào Cần Vương bùng nổ trong hoàn cảnh nào?
10/1884 Quân Pháp bắt đầu khiêu khích, đánh chiếm ở
đồn Mang Cá yêu cầu TT.Thuyết giải tán. Trước sự uy hiếp
trắng trợn của kẻ thù TT.Thuyết và những người cộng sự của
ông đã quyết định nổ súng để giành thế chủ động vào tòa
Khâm Sứ nơi Đờ-cuốc-xi và các sỹ quan, binh lính Pháp
đang say sưa yến tiệc vào đêm mồng 4 rạng sáng 5/7/1885
Nghĩa quân của Tôn Thất Thuyết được chia làm 2 đạo
quân. Đạo quân thứ nhất do Tôn Thất Lệ (em trai) chỉ huy
quân vượt sông Hương để đánh vào Khâm Sứ, đạo quân thứ
hai do Tôn Thất Thuyết và Trần Sơn Soạn chỉ huy đánh vào
đồn Mang Cá nơi đây tập trung nhiều binh lính và vũ khí của
Pháp. Bị bất ngờ lúc đầu quân địch hoảng loạn, nhưng sau đó
chúng đã phản công quân ta, trắng trợn cướp bóc của cải,
giết cả những người dân vô tội
Trong lúc hỗn loạn TTT đã đưa vua Hàm Nghi cùng
tam cung(mẹ và 2 vợ của Tự Đức ) và các quan lại quý tộc
rời kinh đô Huế chạy lên sơn phòng Tân Sở - Quảng Trị.
Trên đường đi 1 số quan lại tìm cách lẩn trốn để quay lại
Huế ôm chân thực dân Pháp(Nguyễn Văn Tường) sau đó đưa
người của phe chủ hòa lên làm vua theo yêu cầu của Pháp.
Tại đây ngày 13/7/1885 ông lấy danh nghĩa là Hàm Nghi đã
hạ chiếu Cần Vương lần thứ nhất. Ở Quảng Trị 1 thời gian
tam cung cùng nhiều quan lại quý tộc phần nhiều nằm trong
phe chủ hòa, vốn không có tinh thần chống Pháp, lại không
chịu được cảnh cơ cực khi rời xa cuộc sống sa hoa ở cố đô
nên đã quay lại Huế. Một bộ phận chủ chiến trong triều đình
vẫn quyết tâm đánh giặc, để tránh sự truy lùng của Pháp TTT
lại đưa vua Hàm Nghi ra sơn phòng Ấu Sơn (Hương Khê) tại
đây ngày 20/9/1885 Hàm Nghi lại xuống chiếu lần hai, trong
khi đó, tại Huế ngày 19/9/1885 thực dân Pháp đã đưa Đồng
Khánh lên ngôi để cộng tác với Pháp ổn định tình hình và
đàn áp phong trào kháng chiến của nhân dân.
Mai Văn Huy - Khoa Lịch sử - ĐHSP Thái Nguyên Gmail: Quangh94@gmail.com : SĐT: 01673198162/0944725306 Page 1 Tiết 27 – Bài 21: PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM CUỐI THẾ KỶ XIX. Hoạt động của GV – HS Nội dung chính. Hoạt động 1: Tìm hiểu cuộc phản công Pháp của phái chủ chiến tại kinh thành Huế Thời gian: 15 phút. Hình thức: Lớp, cá nhân. Sau 2 hiệp ước 1883, 1884 tình hình nước ta có gì nổi bật? Sau khi kí hiệp ước Hacmang và Patonot, triều đình Huế đã chấm dứt sự tồn tại của nhà nước phong kiến VN độc lập, ngai vàng của nhà Nguyễn gần đến miệng hố diệt vong. Tuy nhiên các văn thân, sỹ phu yêu nước, trong đó có 1 bộ phận nằm trong phe chủ chiến của triều đình Huế do TT.Thuyết đứng đầu vẫn nuôi hy vọng khôi phục lại chủ quyền nếu có thời cơ. Sau khi vua Tự Đức mất ngày 17/7/1883 TT.Thuyết là 1 trong 3 phụ chính đại thần đồng thời giữ chức thượng thư bộ binh. Ông đã ra sức xây dựng, tăng cường lực lượng quân đội để chờ ngày phản công. Ông đã bí mật cho xây dựng các sơn phòng dọc dãy Trường Sơn, và cho quân chuyển súng đạn, thuốc men, lương thực ra căn cứ Tân Sở (Cam Lộ - Quảng Trị). Hai đội quân được lập ra là Phấn Nghĩa và Đoàn Kiệt đã ngày đêm tập luyện để sẵn sàng chiến đấu TT.Thuyết còn phế truất các ông vua do triều Nguyễn mới đặt lên ngôi do có tư tưởng thân Pháp như Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, cuối cùng ông lấy Ưng Lịch 14t lên ngôi lấy hiệu là Hàm Nghi, hành động của phái chủ chiến làm cho TDP hết sức lo ngại. Ngay sau đó bọn tay sai Pháp trong triều đình đã báo cho Khâm Sứ Pháp tại Huế. Vài nét về vua Hàm Nghi. Hàm Nghi: tên thật là Ưng Lịch, em ruột vua Kiến Phúc. Sau khi vua Kiến Phúc bị giết, Ưng Lịch mới 14 tuổi được đưa lên ngôi tháng 8/1884. Khi Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết đã I. Phong trào Cần Vương bùng nổ. 1. Cuộc phản công Pháp của phái chủ chiến tại Kinh thành Huế và sự bùng nổ của phong trào Cần Vương a) Cuộc phản công của phái chủ chiến. - Phái chủ chiến vẫn tích cực chuẩn bị, chờ thời cơ để giành độc lập. - Pháp tìm cách tiêu diệt. - 5/7/1885 phái chủ chiến chủ động tấn công Pháp ở tòa Khâm Sứ và đồn Mang Cá b) Phong trào Cần Vương bùng nổ - Trước sự đàn áp của TDP, TTT đã đưa vua Hàm Nghi ra sơn phòng Tân Sở - 13/7/1885 TTT lấy danh nghĩa Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương - Phong trào CV bùng nổ và kéo dài đến cuối thế kỷ 19. Mai Văn Huy - Khoa Lịch sử - ĐHSP Thái Nguyên Gmail: Quangh94@gmail.com : SĐT: 01673198162/0944725306 Page 2 đưa Hàm Nghi cùng tam cung chạy khỏi hoàng thành lên Tân Sở (Quảng Trị). Đạo ngự có tới hơn 1000 người, sau 2 ngày lên đường đoàn ngự đến Quảng Trị và chia làm 2 đoàn, một đoàn gồm Hoàng thân, quan lại già yếu, phụ nữ, trẻ nhỏ, quay lại Huế. Còn lại theo vua đi xây dựng căn cứ chống pháp. Nhà vua dần dần ý thức được trách nhiệm của một ông vua đang mất nước và quyết tâm kháng chiến. Hàm Nghi đã phê chuẩn chiếu Cần Vương với trách nhiệm rõ ràng của một ông vua khi có ngoại xâm. Phong trào Cần Vương bùng nổ trong hoàn cảnh nào? 10/1884 Quân Pháp bắt đầu khiêu khích, đánh chiếm ở đồn Mang Cá yêu cầu TT.Thuyết giải tán. Trước sự uy hiếp trắng trợn của kẻ thù TT.Thuyết và những người cộng sự của ông đã quyết định nổ súng để giành thế chủ động vào tòa Khâm Sứ nơi Đờ-cuốc-xi và các sỹ quan, binh lính Pháp đang say sưa yến tiệc vào đêm mồng 4 rạng sáng 5/7/1885 Nghĩa quân của Tôn Thất Thuyết được chia làm 2 đạo quân. Đạo quân thứ nhất do Tôn Thất Lệ (em trai) chỉ huy quân vượt sông Hương để đánh vào Khâm Sứ, đạo quân thứ hai do Tôn Thất Thuyết và Trần Sơn Soạn chỉ huy đánh vào đồn Mang Cá nơi đây tập trung nhiều binh lính và vũ khí của Pháp. Bị bất ngờ lúc đầu quân địch hoảng loạn, nhưng sau đó chúng đã phản công quân ta, trắng trợn cướp bóc của cải, giết cả những người dân vô tội Trong lúc hỗn loạn TTT đã đưa vua Hàm Nghi cùng tam cung(mẹ và 2 vợ của Tự Đức ) và các quan lại quý tộc rời kinh đô Huế chạy lên sơn phòng Tân Sở - Quảng Trị. Trên đường đi 1 số quan lại tìm cách lẩn trốn để quay lại Huế ôm chân thực dân Pháp(Nguyễn Văn Tường) sau đó đưa người của phe chủ hòa lên làm vua theo yêu cầu của Pháp. Tại đây ngày 13/7/1885 ông lấy danh nghĩa là Hàm Nghi đã hạ chiếu Cần Vương lần thứ nhất. Ở Quảng Trị 1 thời gian tam cung cùng nhiều quan lại quý tộc phần nhiều nằm trong phe chủ hòa, vốn không có tinh thần chống Pháp, lại không chịu được cảnh cơ cực khi rời xa cuộc sống sa hoa ở cố đô Mai Văn Huy - Khoa Lịch sử - ĐHSP Thái Nguyên Gmail: Quangh94@gmail.com : SĐT: 01673198162/0944725306 Page 3 nên đã quay lại Huế. Một bộ phận chủ chiến trong triều đình vẫn quyết tâm đánh giặc, để tránh sự truy lùng của Pháp TTT lại đưa vua Hàm Nghi ra sơn phòng Ấu Sơn (Hương Khê) tại đây ngày 20/9/1885 Hàm Nghi lại xuống chiếu lần hai, trong khi đó, tại Huế ngày 19/9/1885 thực dân Pháp đã đưa Đồng Khánh lên ngôi để cộng tác với Pháp ổn định tình hình và đàn áp phong trào kháng chiến của nhân dân. Hai tờ chiếu này tập trung tố cáo âm mưu xâm lược VN của TDP, đồng thời kêu gọi văn thân, sỹ phu đứng lên giúp vua kháng chiến chống Pháp để bảo vệ quê hương. Cần Vương là gì? Cần: Là phò tá, giúp đỡ. Vương: Là vua. Cần Vương là hết lòng phò tá giúp vua cứu nước,về thực chất đây là một phong trào chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta dưới sự chỉ huy của một ông vua yêu nước đó là vua Hàm Nghi Lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa CV không phải là các võ quan triều đình Nguyễn như thời kỳ đầu chống Pháp, mà là các sỹ phu, văn thân yêu nước có chung 1 nỗi đau mất nước, nên đã tự nguyện đứng về phía nhân dân chống Pháp xâm lược. Phong trào Cần Vương được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: Từ lúc vua Hàm Nghi ban chiếu đến khi vua Hàm Nghi bị bắt (13/7/1885 – 11/1888 Giai đoạn 2: từ 1888 đến 1896 khởi nghĩa Hương Khê thất bại Mai Văn Huy - Khoa Lịch sử - ĐHSP Thái Nguyên Gmail: Quangh94@gmail.com : SĐT: 01673198162/0944725306 Page 4 2. Các giai đoạn phát triển của phong trào Cần Vương. Hoạt động 2: Tìm hiểu các giai đoạn phát triển của phong trào Cần Vương. Thời gian: 13 phút. Hình thức: Lớp, cá nhân Nội dung 1885 – 1888 1888 – 1896 Lãnh đạo Tôn Thất Thuyết, vua Hàm Nghi Các văn thân, sỹ phu Lực lượng tham gia Đông đảo tầng lớp nhân dân Đông đảo nhân dân Địa bàn Rộng khắp, nhưng chủ yếu ở Bắc Kì và Trung Kì Thu hẹp, trọng tâm thu về rừng núi, trung du Cuộc KN tiêu biểu Bãi Sậy, Ba Đình, Hương Khê Hương Khê, Hùng Lĩnh Kết quả Gây cho Pháp nhiều khó khăn, năm 1888 vua Hàm Nghi rơi vào tay Pháp, sau đó bị đầy sang Angieri. Đầu 1896 khởi nghĩa Hương Khê bị dập tắt, phong trào Cần Vương thất bại. Ý nghĩa: Là phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, thể hiện tính dân tộc sâu sắc. Mai Văn Huy - Khoa Lịch sử - ĐHSP Thái Nguyên Gmail: Quangh94@gmail.com : SĐT: 01673198162/0944725306 Page 5 Hoạt động 3: Tìm hiểu cuộc KN Bãi Sậy. Thời gian: 13 phút. Hình thức: Lớp, cá nhân. Tại sao ta lại chọn Bãi Sậy làm căn cứ địa kháng chiến? Do có địa thế hiểm trở, đầm hồ, lau sậy um tùm dễ xây dựng căn cứ, đào hào và để nhiều bẫy. Điểm mạnh: Thích hợp với lối đanh du kích, chủ động phục kích giặc trên đường đi hoặc tập kích các đồn lẽ của giặc, dễ dàng phong tỏa các tuyến đường giao thông cả đường thủy lẫn bộ Điểm yếu: Địa bàn hoạt động của nghĩa quân chỉ hạn chế trong vùng Bãi Sậy. Vài nét về Nguyễn Thiện Thuật. Ông sinh năm 1844, quê ở Mỹ Hào – Hưng Yên, ông thi đỗ cử nhân vào 1876 sau đó được phong chức tán tương quân vụ tỉnh Hưng Hóa (Quan Hóa – Thanh Hóa) Tháng 8/1883 khi Pháp chiếm Hải Dương, ông đã mộ quân đánh chiếm. Khi triều đình Huế kí hiệp ước Hacmang 1883 để đầu hàng Pháp, ông đã lánh sang Trung Quốc. Được tin Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương ngày 13/7/1885, ông lập tức trở về nước và liên kết với phong trào Cần Vương tổ chức chống Pháp ở Hưng Yên. Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. - Dưới danh nghĩa CV, NTT đã tập hợp nhiều đội quân nhỏ ở trong vùng và các vùng lân cận hình thành một phong trào có quy mô lớn nhất Bắc Kì - Dưới quyền của ông, các tướng lĩnh đã chỉ huy các đội quân hoạt động trên nhiều địa bàn như Mĩ Hào,Vĩnh Hảo, căn cứ Hai Sông ở Kinh Môn. - Bãi Sậy là căn cứ chính do Nguyễn Thiện II. Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong phong trào Cần Vương và phong trào đấu tranh tự vệ cuối thế kỷ XIX. 1. Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 – 1892) - Lãnh đạo: + Từ 1883-1885: Đinh Gia Quế + Từ 1885: Nguyễn Thiện Thuật. - Địa bàn hoạt động: Bãi Sậy -Hưng Yên là căn cứ chính, ngoài ra còn có căn cứ Hai Sông - Từ 1885-1887: Nghĩa quân đẩy lùi nhiều cuộc càn quét. - Từ 1888 nghĩa quân bước vào giai đoạn chiến đấu quyết liệt. - 7/1889 căn cứ Hai Sông bị Pháp bao vây, Đốc Tít phải ra hàng giặc và bị đày sang Angieri. - 1892: Lực lượng cuối cùng về với nghĩa quân Yên Thế, cuộc khởi nghĩa thất bại. Mai Văn Huy - Khoa Lịch sử - ĐHSP Thái Nguyên Gmail: Quangh94@gmail.com : SĐT: 01673198162/0944725306 Page 6 Thuật trực tiếp chỉ huy - Từ căn cứ B.Sậy nghĩa quân đẩy mạnh hoạt động ra vùng Đồng Bằng và khống chế những tuyến giao thông chính như: HN – H.Phòng; HN – N.Định; HN – B.Ninh và các tuyến đường thủy trên sông Hồng, Thái Bình, Đuống. - Ngoài B.Sậy căn cứ Hai Sông là căn cứ lớn thứ 2 của nghĩa quân do Đốc Tít (Nguyễn Đức Hiệu) phụ trách. Tại căn cứ này nghĩa quân tỏa ra hoạt động ở các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Yên - Nghĩa quân B.Sậy không tổ chức thành quân đội lớn, mà phân tán nhỏ rải rác khắp nơi. Mỗi đội quân chia thành từng toán từ 20 – 25 người trà trộn vào dân để hoạt động. - Về vũ khí nghĩa quân tự trang bị là chính, ngoài những trang bị vũ khí thô sơ như gươm, giáo, mác, mã tấu, gậy gộcnghĩa quân còn sản xuất được loại súng theo mẫu súng của Pháp. - Phương thức tác chiến của nghĩa quân là đánh du kích, lấy ít địch nhiều, lấy vũ khí thô sơ chống trả vũ khí hiện đại của giặc. Nghĩa quân thường lợi dụng yếu tố bất ngờ để tổ chức tập kích hoặc chặn đường giao thông tiếp tế vận tải của địch - Điểm nổi bật của khởi nghĩa B.Sậy là ngoài tổ chức đấu tranh vũ trang thì còn chú trọng công tác tuyên truyền, tố cáo tội ác của giặc, đồng thời vận động nhân dân tích cực ủng hộ, giúp đỡ nghĩa quân về lương thực, tiền bạc, vũ khí - Từ năm 1885 – 1887 nghĩa quân đẩy lùi nhiều cuộc càn quét của địch ở cả vùng đồng bằng Khoái Châu và căn cứ Hai Sông - Từ năm 1888 trở đi nghĩa quân bước vào cuộc chiến đấu ác liệt, thực dân Pháp tăng cường binh lực, cho xây dựng hệ thống đồn bốt dày đặc Mai Văn Huy - Khoa Lịch sử - ĐHSP Thái Nguyên Gmail: Quangh94@gmail.com : SĐT: 01673198162/0944725306 Page 7 và thực hiện chính sách dùng người Việt để trị người Việt để cô lập căn cứ B.Sậy, trước hành động của Pháp nghĩa quân chiến đấu dũng cảm nhưng lực lượng ngày càng giảm sút và dần rơi vào tình thế cô lập. - Tình thế khó khăn giữa năm 1889 Nguyễn Thiện Thuật giao lại binh quyền cho em, rồi vượt vòng vây đến căn cứ Hai Sông. Tại đây Đốc Tít đã tổ chức cho ông trốn sang TQ vào tháng 7/1889 và mất tại đó vào năm 1926, thọ 82 tuổi. - Ở căn cứ Hai Sông cuối tháng 7/1889 Pháp tập trung binh lực bao vây và tấn công Trại Sơn là đại bản doanh của căn cứ Hai Sông. Quân địch chia làm 4 đạo vây chặt căn cứ trung tâm, sau đó dùng tàu bè đi tuần ngày đêm, nghĩa quân chạy hết nơi này sang nơi khác, địch thắt vòng vây, tăng cường truy quét, khủng bố. Thế lực cạn kiệt cuối cùng Đốc Tít phải ra hàng giặc vào ngày 12/8/1889 rồi bị đày sang Angieri - Những tổn thất nặng nề đó làm cho phong trào chống Pháp ở Hưng Yên, Hải Dương bị suy yếu, nhiều nghĩa binh bị giặc bắt trong đó có Nguyễn Thiện Kế bị giặc bắt sau đó đày ra Côn Đảo. Đầu năm 1892 thủ lĩnh cuối cùng của khởi nghĩa B.Sậy là Đốc Vinh bị giết, lực lượng nghĩa quân B.Sậy mới tan rã hẳn. Khởi nghĩa Bãi Sậy – Hai Sông là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất của nhân dân Đồng Bằng Bắc Bộ vào cuối thế kỷ 19, tuy là thất bại nhưng đã để lại nhiều bại học bổ ích nhất là kinh nghiệm về phương thức tổ chức hoạt động và tổ chức tác chiến trên địa hình đồng bằng, đất hẹp, người đông
File đính kèm:
- Bai_21_Phong_trao_yeu_nuoc_chong_Phap_cua_nhan_dan_Viet_Nam_trong_nhung_nam_cuoi_the_ki_XIX.pdf