Đề tài Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn Hóa học 9 tại trường THCS Huỳnh Thúc Kháng
Khi giảng dạy bộ môn Hóa học tôi thấy rằng loại bài luyện tập là rất quan trọng nhằm củng cố, hệ thống hóa và khắc sâu kiến thức đồng thời rằng luyện kỹ năng vận dụng giải bài tập hóa học. Cấu trúc bài luyện tập ở sách giáo khoa có 2 phần:
+ Phần 1: Kiến thức cần nhớ
+ Phần 2: Bài tập
Ở phần 1 nếu giáo viên không biết vận dụng phương pháp tích cực thì dạy phần này tương đối tẻ nhạt, đơn thuần là giáo viên ra câu hỏi – học sinh trả lời, hiệu quả cách dạy này không cao.
Nếu dùng sơ đồ tư duy để hệ thống hóa các kiến thức của một chương, trong đó thể hiện đầy đủ các nội dung kiến thức và được đặt trong mối liên hệ của chúng thì học sinh sẽ dễ nhớ và nhớ lâu hơn.
ong năm 2014 quá thấp: Lớp TSHS 0 - 4,9 5 - 6,4 6,5 - 7,9 8 - 10 TBTL SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 9/1 28 14 50% 12 42,9% 2 7,1% 0 14 50% 9/2 25 12 48% 12 48% 1 4% 0 13 52% K9 53 26 49,1% 24 45,3% 3 5,7% 0 27 50,9% Trước thực trạng đó làm tôi thấy lo lắng cho chất lượng học sinh khối 9 của trường trong năm học 2014-2015. Để khắc phục các hạn chế đó tôi đã đưa ra phương pháp giúp học sinh học tốt bằng sơ đồ tư duy nhằm nâng cao tính chủ động sáng tạo trong học tập. Với phương pháp này của tôi đã mang lại những thành quả nhất định cho học sinh và tôi nghĩ phương pháp này sẽ mang lại nhiều thành công hơn nữa trong nhiều năm học sau ở các lớp trên. V/ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: 1. Mô tả giải pháp của đề tài: Hóa học là một môn học rất gần gũi với cuộc sống, Hóa học chính là học những gì xung quanh ta. Do đó người giáo viên phải làm cho học sinh thông hiểu được vấn đề này. Để làm được điều đó không phải là nói suông mà chúng ta phải hiểu là đưa kiến thức Hóa học vào trong cuộc sống, từ kiến thức đã học các em có thể liên hệ để giải thích các hiện tượng đang diễn ra xung quanh, thấy được vai trò của Hóa học đối với đời sống và sản xuất. Đây là một công việc không hề đơn giản, nhất là với học sinh mới được là quen với môn Hóa học. Nó đòi hỏi học sinh phải chịu khó, biết liên hệ nhiều kiến thứcDo đó giáo viên phải hướng dẫn học sinh phương pháp học tập để ghi nhớ kiến thức một cách đầy đủ và hệ thống, biết cách liên hệ, gắn kết các kiến thức đã học với nhau. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ học sinh chưa có phương pháp học tập hiệu quả. Các em chỉ chờ giáo viên đọc hoặc chép lên bảng rồi từ đó chép vào vở. Các em không biết ghi nhận kiến thức theo cách hiểu của mình mà chỉ ghi chép một cách thụ động. Điều này mâu thuẫn với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Kết quả là chất lượng học tập chưa cao, học sinh không tích cực trong học tập cũng như trong việc ghi nhớ kiến thức. Qua việc giúp học sinh sử dụng thành thạo sơ đồ tư duy sẽ giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của não bộ. Học sinh sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết và vẽ ra theo chính suy nghĩ của mình. Giúp hạn chế và dần dần tiến tới chấm dứt tình trạng dạy – học theo lối “đọc – chép” trong nhà trường phổ thông. Hơn nữa thông qua sơ đồ tư duy còn giúp học sinh cách khái quát hóa kiến thức, nắm vững sự liên hệ giữa các nội dung Hóa học với nhau. Sơ đồ tư duy có thể sử dụng để kiểm tra bài cũ, trong việc dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau bài học, dùng cho giáo viên ra bài tập về nhà, dùng trong bài thực hành và tổng hợp kiến thức một chương hoặc nhiều bài. Đặc biệt là có thể giúp học sinh có thể tự học ở nhà, chuẩn bị cho bài học mới. 2. Hướng dẫn học sinh cách lập một sơ đồ tư duy: 2.1. Khái niệm: Sơ đồ tư duy (Mind Map) còn gọi là bản đồ tư duy, lược đồ tư duy là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh, nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề Đặc biệt, đây là một dạng sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi em có thể vẽ một kiểu khác nhau, dùng những hình ảnh, màu sắc, chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác nhau,Tuy cùng một chủ đề các em có thể vẽ sơ đồ tư duy theo cách riêng của mình. Do đó việc lập sơ đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. 2.2. Cấu tạo của sơ đồ tư duy: Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề. Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ chủ đề. Phát triển các nhánh cấp 1 là nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý chính. Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm thì ý càng cụ thể chi tiết. Có thể nói sơ đồ tư duy là một bức tranh tranh tổng thể, một mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung, một đơn vị kiến thức nào đó. 2.3. Các bước thiết lập một sơ đồ tư duy: Để thiết lập một sơ đồ tư duy dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấyhay trên phần mềm Mind Map chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây: - Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình ảnh minh họa cho chủ đề). - Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó ta phân chia ra những ý chính, đặt tiêu đề cho các nhánh chính, nối chúng với trung tâm. - Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ những ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai thành mạng lưới liên kết chặt chẽ. - Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý, tạo tác động trực quan dễ nhớ. 2.4. Một số lưu ý khi lập sơ đồ tư duy: - Không ghi quá dài dòng hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn, xúc tích, diễn đạt được ý chính cần diễn giải. - Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần thiết góp phần làm rõ các ý, chủ đề. - Nên chọn hướng khổ giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các nhánh con. - Không đầu tư qua nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết, tô màu - Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình. 3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn Hóa học lớp 9 nhằm nâng cao chất lượng dạy và học: Trước đây khi mới đưa sơ đồ tư duy vào dạy học, giáo viên thường chỉ sử dụng sơ đồ tư duy để củng cố bài học. Trên thực tế, sơ đồ tư duy có thể sử dụng vào nhiều mục đích, nhiều dạng bài trong dạy và học như: - Thiết kế đề cương ôn tập. - Kiểm tra kiến thức cũ . - Hình thành một vài đơn vị kiến thức mới của bài học hay toàn bài học. - Củng cố kiến thức của từng phần hay củng cố kiến thức toàn bài vào cuối tiết học hoặc một chương, một chủ đề. - Học sinh sử dụng sơ đồ tư duy khi làm bài tập được giao về nhà ở cuối tiết học hoặc chuẩn bị bài mới. 3.1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc kiểm tra kiến thức cũ: Vì thời gian kiểm tra bài cũ không nhiều, chỉ khoảng 5 – 7 phút nên yêu cầu của giáo viên thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân tích, so sánh để trả lời câu hỏi. Giáo viên thường yêu cầu học sinh tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. Giáo viên sẽ chấm điểm tùy vào mức độ thuộc bài của học sinh. Cách làm này vô tình để nhiều học sinh rơi vào tình trạng “học vẹt ”, đọc thuộc lòng mà không hiểu bài. Do đó cần phải có sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh, yêu cầu đặt ra là không chỉ kiểm tra “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Hóa học đã thực hiện được điều đó. Các bản đồ thường được giáo viên sử dụng dưới dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm. Ví dụ: Yêu cầu học sinh điền tiếp các thông tin vào sơ đồ tư duy sau: Bên cạnh việc dùng sơ đồ tư duy để kiểm tra bài cũ, giáo viên cũng có thể sử dụng sơ đồ tư duy để kiểm tra 15 phút đối với học sinh để tăng cường việc rằng luyện thói quen tư duy logic cho học sinh thông qua các bài kiểm tra viết, nhằm phát triển tư duy sáng tạo cho các em. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý rằng kiểm tra kiến thức cũ bằng phương pháp vẽ sơ đồ tư duy chỉ là một hình thức kiểm tra nhằm giúp học sinh củng cố, hệ thống kiến thức có tính chất lý thuyết. Do đó giáo viên nên chọn kiểm tra những kiến thức có tính hệ thống, xâu chuỗi, và học sinh có thể dễ dàng sâu chuỗi bằng sơ đồ tư duy. Ví dụ: Lập sơ đồ tư tuy về tính chất hóa học của một chất, một loại chất; lập sơ đồ tư tuy về một bài, một chươngMặt khác về yêu cầu của đề kiểm tra, giáo viên cần đưa ra từ hay cụm từ khóa ngắn gọn, rõ ràng, cụ thể, khái quát được chủ đề của phần kiến thức cần kiểm tra trong câu hỏi để định hướng, giúp học sinh dễ dàng nắm bắt chính xác yêu cầu của đề và có thể vẽ sơ đồ tư duy theo đúng yêu cầu. Ví dụ : Hãy lập sơ đồ tư duy trình bày tính chất hóa học của muối? ( bài vẽ của học sinh có minh chứng ở phần phụ lục) 3.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc giảng bài mới: Việc thực hiện dạy học bằng cách lập sơ đồ tư duy được tóm tắt qua 4 bước như sau: - Bước 1: Học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với gợi ý, hướng dẫn của giáo viên. - Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập. - Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ tư duy về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh sơ đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. - Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một sơ đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một sơ đồ tư duy mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. Trong cách dạy học này giáo viên sẽ sử dụng sơ đồ tư duy cho cách trình bày mới. Giáo viên thay vì gạch đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì sử dụng sơ đồ tư duy để thể hiện được một phần hoặc toàn bộ nội dung bài học một cách rất trực quan. Ví dụ 1: Khi dạy bài “TÍNH CHẤT HÓA HỌC CỦA MUỐI”, giáo viên có thể trình bày theo dạng sơ đồ tư duy (ở phần phụ lục). Ví dụ 2: Khi học bài “ MỘT SỐ BAZƠ QUAN TRỌNG” sau khi học sinh vẽ xong nhánh cấp 1, giáo viên sẽ sử dụng các thí nghiệm chứng minh cho tính chất hóa học của NaOH và yêu cầu học sinh: + Quan sát hiện tượng. + Giải thích hiện tượng. + Kết luận ghi vào sơ đồ tư duy. Sơ đồ minh hoạ Ví dụ 3 : Khi học bài “ TÍNH CHẤT HÓA HỌC CỦA OXIT. KHÁI QUÁT VỀ SỰ PHÂN LOẠI OXIT”, sau khi học sinh vẽ xong nhánh cấp 1, giáo viên sẽ sử dụng các thí nghiệm chứng minh cho tính chất hóa học của oxit và yêu cầu học sinh: + Quan sát hiện tương. + Giải thích hiện tượng. + Kết luận ghi vào sơ đồ tư duy. Sau đó cho các nhóm lên trình bày trước lớp để các học sinh khác bổ sung. Giáo viên kết luận qua đó giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh. Khi sang phần khái quát về sự phân loại oxit, dựa vào bản đồ tư duy học sinh nhận thấy rõ có 2 loại oxit chính và dựa vào thông tin trong SGK học sinh nắm được 2 loại oxit còn lại. Tuy nhiên học sinh chưa hiểu rõ được bản chất của 2 loại oxit trên thì giáo viên cần giải thích rõ hơn. Sơ đồ minh hoạ 3.3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc củng cố kiến thức bài học: Để củng cố khắc sâu tính chất của bài học, nhiều giáo viên đã chọn giải pháp là ra một vài bài tập trắc nghiệm hoặc cho học sinh đọc phần ghi nhớ ở sách giáo khoa hay cho học sinh gấp vở lại rồi yêu cầu các em nhớ về kiến thức của bài học đó. Mỗi cách làm ở trên đều có những hạn chế nhất định: + Một vài bài tập không kiểm tra được mức độ tiếp thu của học sinh qua toàn bài học. Đặc biệt là không giúp học sinh khái quát được toàn bộ nội dung bài học. + Cho học sinh đọc phần ghi nhớ ở sách giáo khoa sẽ làm cho học sinh học vẹt, đọc cho xong theo yêu cầu của thầy cô mà không nhớ được kiến thức, nhất là ở cuối tiết học tập trung của các em rất thấp. + Cho học sinh gấp vở lại rồi yêu cầu các em nhớ lại kiến thức của bài học sẽ làm cho các em học thuộc lòng, học vẹt. Các em sẽ cố gắng nhớ ngay lúc đó nhưng sau đó cũng nhanh chóng bị quên. Nếu chúng ta hướng dẫn cho các em sử dụng sơ đồ tư duy để tự tóm tắt nội dung bài học sẽ giúp các em động não, sáng tạo nhiều hơn. Thực hiện điều này sẽ giúp cho học sinh có thể khái quát hóa tốt hơn, liên hệ các kiến thức với nhau một cách logic. Ban đầu giáo viên tự vẽ cho các em thấy, sau đó là yêu cầu các em vẽ theo sự gợi ý, hướng dẫn của giáo viên, và khi các em đã biết cách vẽ, các em tự vẽ theo ý tưởng, sự hiểu biết của mình. Vẽ xong giáo viên chọn đại diện của 1-2 nhóm lên báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập. Cuối cùng giáo viên trình chiếu một sơ đồ tư duy hoàn chỉnh để học sinh tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất. Ví dụ: Sau khi học xong bài: “ BENZEN”, giáo viên cho học sinh vẽ sơ đồ tư duy để củng cố kiến thức: 3.4. Sử dụng sơ đồ tư duy trong bài thực hành: Trong giờ thực hành, học sinh thường được kiểm chứng lý thuyết đã học ở trên lớp và được trực tiếp làm một số thí nghiệm theo nhóm, do đó các em cần phải nắm vững các bước tiến hành để có thể thực hiện thành công các thí nghiệm. Các bước tiến hành phải đơn giản, ngắn gọn cho học sinh dễ hiểu và có thể thực hiện theo được. Trước giờ thực hành, giáo viên yêu cầu học sinh nghiên cứu nội dung thực hành, sau đó vào lớp các nhóm học sinh vẽ ra sơ đồ tư duy thể hiện các bước tiến hành cho từng thí nghiệm và báo cáo trước lớp. Cả lớp chỉnh sửa, bổ sung cho hoàn chỉnh sau đó các nhóm mới tiến hành thí nghiệm theo sơ đồ đã vạch ra. Ví dụ : Sơ đồ tư duy thí nghiệm 3 – Nhận biết 3 dd HCl, H2SO4, Na2SO4 trong bài thực hành “ Tính chất hóa học của oxit và axit” Nhận biết HCl, H2SO4, Na2SO4 + dd BaCl2 Kết tủa trắng: H2SO4 Đỏ: HCl, H2SO4 Quỳ tím Không hiện tượng:HCl Không đổi màu: Na2SO4 3.5. Sử dụng sơ đồ tư duy để ra bài tập về nhà, chuẩn bị bài mới: Vì làm bài tập về nhà sẽ có nhiều thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên bài tập về nhà mà giáo viên giao cho học sinh (hoặc nhóm học sinh) trước hết phải gắn bó với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép ( trình độ học sinh, thời gian, kinh tế). Yêu cầu đối với bài về nhà cũng không cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư lớn hơn (cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin), qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệu học tập của học sinh. Ví dụ : Sau khi học các Hiđrocacbon: Metan, Etilen, Axetilen, Benzen, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà vẽ sơ đồ tư duy thể hiện các nội dung vừa học. (ở phần phụ lục). Để chuẩn bị bài mới, nhiều giáo viên yêu cầu học sinh về nhà đọc trước nội dung của bài mới. Thường học sinh không thực hiện bước này hoặc thực hiện qua loa, đọc lướt qua một lần mà không cần biết bài đó viết vấn đề gì? Nội dung bao nhiêu phần? Để khắc phục được tình trạng nói trên, chúng ta có thể yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ tư duy của bài học mớivào vở bài tập. Điều đó có thể giúp học sinh nắm những kiến thức chính, cơ bản của bài học mới. Do vậy sự tiếp thu của các em sẽ nhanh hơn. Mặt khác do nắm được cấu trúc của bài học nên các em luôn hiểu mình đang ở đâu trong nội dung của bài học, từ đó tạo ra sự chủ động, hứng thú trong việc nắm bắt kiến thức của học sinh. Để định hướng cho học sinh chuẩn bị bài, hướng dẫn cho học sinh nghiên cứu bài ở nhà và lập sơ đồ tư duy về bài học. Công việc này không khó đối với học sinh, tuy nhiên muốn làm được bắt buộc học sinh phải đọc bài và nghiên cứu nắm được các mục trong bài để thể hiện những đơn vị kiến thức trong bài học. Ví dụ : Trước khi học bài “ MỘT SỐ BAZƠ QUAN TRỌNG” giáo viên yêu cầu học sinh về vẽ một sơ đồ tư duy về các đề mục có trong bài. Đến giờ học giáo viên dùng một thời gian (khoảng 3 -5 phút) cho học sinh nhận xét một vài sơ đồ tư duy mà học sinh đã chuẩn bị rồi chọn ra sơ đồ nào hay nhất. Trên cơ sở sơ đồ được chọn này giáo viên hướng dẫn học sinh hoạt động để tìm hiểu nội dung bài học. Như vậy, việc cho học sinh lập một sơ đồ tư duy trong quá trình chuẩn bị bài giúp học sinh định hướng việc học tập một cách tích cực, chủ động. Học sinh xác định được công của mình trong tiết học, từ đó có thái độ nghiên cứu, chuẩn bị bài tốt hơn. 3.6. Sử dụng sơ đồ tư duy để dạy tiết ôn tập, luyện tập: Khi giảng dạy bộ môn Hóa học tôi thấy rằng loại bài luyện tập là rất quan trọng nhằm củng cố, hệ thống hóa và khắc sâu kiến thức đồng thời rằng luyện kỹ năng vận dụng giải bài tập hóa học. Cấu trúc bài luyện tập ở sách giáo khoa có 2 phần: + Phần 1: Kiến thức cần nhớ + Phần 2: Bài tập Ở phần 1 nếu giáo viên không biết vận dụng phương pháp tích cực thì dạy phần này tương đối tẻ nhạt, đơn thuần là giáo viên ra câu hỏi – học sinh trả lời, hiệu quả cách dạy này không cao. Nếu dùng sơ đồ tư duy để hệ thống hóa các kiến thức của một chương, trong đó thể hiện đầy đủ các nội dung kiến thức và được đặt trong mối liên hệ của chúng thì học sinh sẽ dễ nhớ và nhớ lâu hơn. Giáo viên cho học sinh lập sơ đồ tư duy ở nhà về phần kiến thức cần nhớ, khi dạy phần này giáo viên cho học sinh nhận xét vài sơ đồ và chọn ra sơ đồ hoàn chỉnh nhất. Giáo viên có thể bổ sung ý kiến của mình vào để có một sơ đồ chuẩn cho học sinh nắm kiến thức của bài học. Ví dụ: Sau khi học xong chương I, có thề dùng sơ đồ tư duy hệ thống hóa lại các nội dung trọng tâm trong chương. 4/ Một số lưu ý khi sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học: Tuy nhiên không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử dụng sơ đồ tư duy và cũng không phải sử dụng cho mọi giờ học. Giáo viên cần có sự linh hoạt trong sử dụng sơ đồ tư duy đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng học sinh và quan trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài học. Trong dạy học, việc sử dụng sơ đồ tư duy được sử dụng, khai thác khác nhau tùy theo trình độ của các nhóm học sinh : * Đối với học sinh trung bình: tập cho học sinh có thói quen tự ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã học, đã học theo cách hiểu của các em dưới dạng sơ đồ tư duy .Trước hết nên cho học sinh tập “ đọc hiểu” và tự vẽ sơ đồ tư duy sau từng bài học. Ban đầu, giáo viên cho các em làm quen với một số sơ đồ tư duy có sẵn, sau đó tập cho các em vẽ bằng cách cho tên chủ đề hoặc một hình ảnh, hình vẽ của chủ đề chính vào vị trí trung tâm rối đặt ra các câu hỏi gợi ý để các em tiếp tục vẽ ra các nhánh cấp 1, 2,3 Hướng dẫn, gợi ý các em tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của mỗi bài học vào một trang giấy. Có thể vẽ chung trên một cuốn vở hoặc để thành các trang giấy rời rồi kẹp thành một tập. Mỗi bài học được được vẽ kiến thức trọng tâm trên một trang giấy giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần, chỉ cần rút tờ sơ đồ tư duy của bài đó ra là các em nhanh chóng ôn lại kiến thức một cách dễ dàmg. Với cách làm này rèn luyện cho bộ óc các em hướng dẫn tới cách suy nghĩ lôgic, mạch lạc và cũng là cách giúp các em hiểu bài, ghi nhớ kiến thức vào não chứ không phải là học thuộc lòng, học vẹt. * Đối với học sinh khá giỏi: Giáo viên chú ý hướng cho học sinh sử dụng sơ đồ tư duy để tìm chiến lược giải quyết một vấn đề hay tìm nhiều hướng giải một bài toán, hệ thống hóa kiến thức, Việc vẽ sơ đồ tư duy theo nhóm nên thực hiện trước khi nghiên cứu tài liệu mới, kiến thức mới để cả nhóm tìm chiến lược giải quyết vấn đề hoặc cũng có thể thực hiện để hệ thống hóa kiến thức, một chủ đề, một chương. Sau khi mỗi nhóm “vẽ” xong, đại diện của mỗi nhóm hoặc một số thành viên trong nhóm “ thuyết trình” sơ đồ tư duy cho cả lớp nghe để thảo luận, góp ý bổ sung ( nếu cần thiết). Ngoài việc vẽ sơ đồ tư duy trong học tập, nên cho các em có thói sử dụng sơ đồ tư duy tự hoạch. Khuyến khích học sinh ôn luyện bài, học bài ở nhà, hoặc ở lớp hoạt động nhóm bằng sơ đồ tư duy.ghi tóm lược nội dung chính của cuốn sách dưới dạng sơ đồ tư duy khi các em đọc sách. Hoặc gợi ý cho các em lập kế hoạch học tập, vạch kế hoạch cho bản thân để biến ước mơ thành hiện thực trong tương lai, các kế hoạch này có thể được bổ sung dần dần theo năm tháng bằng cách vẽ thêm nhánh khi mỗi người có sự điều chỉnh kế * So với phương pháp dạy học trước đây, sau khi áp dụng những giải pháp trong sáng kiến kinh nghiệm với học sinh khối 9 của trường trong năm học 2014-2015, bản thân tôi nhận thấy đã đem lại một số hiệu quả như mong muốn. Trước đây, trong giờ Hóa học rất ít học sinh tham gia phát biểu xây dựng bài mà nhiều em chỉ ngồi nghe một cách thụ động. Dạy học bằng sơ đồ tư duy giúp cho học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu và chính xác nội dung bài học của mình, khắc phục được tình trạng học sau quên trước. Đặc biệt, đối với phương pháp này không chỉ phát triển được trí tuệ của học sinh qua
File đính kèm:
- Du_thao_bao_cao_noi_dung_chuyen_de_mon_hoa_hoc_lop_9_20150725_112619.doc