Đề tài Một vài suy nghĩ về việc hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý để học tốt môn tập làm văn

a) Chọn đề bài tập làm văn. Chọn những đề bài phù hợp, gần gủi với học sinh, các em có khả năng trực tiếp quan sát.

Ví dụ: Tả hình dáng tính tình của cô giáo. của mẹ. của người thân, hay, tả quang cảnh sân trường trong giờ ra chơi.

b) Đực kỷ yâu cầu của đề bài.

Đây là khâu chuẩn bị rất quan trọng của cả giáo viên và học sinh

doc10 trang | Chia sẻ: rimokato | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một vài suy nghĩ về việc hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý để học tốt môn tập làm văn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường tiểu học nguyễn trãi
Sáng kiến kinh nghiệm 
Một vài suy nghĩ về việc
Hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý
để học tốt môn tập làm văn
A - phần mở đầu:
	I - Lý do chọn đề tài:
	Thế kỷ XXI mở ra nhiều thách thức và vận hội đối với đất nước. Đại hội Đảng lần thứ 8 đã quyết định đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước nhằm mục tiêu dân giầu nước mạnh xã hội công bằng, văn minh, đất nướcvững bước đi lên CNXH. (( Giáo dục phải thật sự là quốc sách hàng đầu... Cải tiến chất lượng dạy và học để hoàn thành tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn lực con người cho CNH - HĐH đất nước )) ( Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VIII) Theo định hướng đó thì bậc tiểu học là nền tảng. Mục tiêu giáo dục tiểu học là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ và cùng cấp cho trẻ những tri thức cần thiết. Môn tập làm văn ở tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn luyện kỹ năng nói và viết cho học sinh. Nhưng học sinh còn lúng túng không biết nói gì, viết gì. Vì vậy dạy cho học sinh biết quan sát tìm ý để hình thành một thói quen chuẩn bị làm tốt là một yêu cầu quan trọng khi làm văn. Muốn quan sát tốt, học sinh cần nắm được cách quan sát và những yêu cầu quan sát để làm văn.
	Đối với tất cả giáo viên và học sinh đều chưa nhận thức hết tầm quan trọng của giờ hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý nên chất lượng giờ dạy còn hạn chế.
	Với mong muốn có một đóng góp nhỏ bé trong việc giáo dục học sinh phát triển toàn diện, nâng cao năng lực sự phạm cho bản thân, tôi đã chọn đề tài.
	(( Hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý cho tập làm văn )) 
	II - Mục đích nghiên cứu:
	Dựa vào việc tìm hiểu thực trạng của việc giảng dạy và học tập giờ quan sát, tìm ý cho bài tập làm văn hiện nay, người viết có 1 số đề xuất về việc hướng dẫn học sinh biết quan sát tìm ý một cách tích cực có hiệu quả tiến tới học sinh có khả năng nói và viết tốt hơn.
	III - Đối tượng nghiên cứu:
	- Chương trình môn tập làm văn.
	- Phương pháp dạy môn tập làm văn 
	- Các tổ chức học sinh quan sát, tìm ý.
	- Giáo viên và học sinh lớp 5 trường tiểu học Dân Quyền B .
	IV - Phương pháp nghiên cứu:
	- Nghiên cứu tài liệu: Đọc tài liệu, sách tham khảo.
	- Khảo sát thực tế: Dự giờ thăm lớp.
	 Khảo sát tình hình thực tế.
	- So sánh đối chiếu.
	- Phương pháp thực hành 
B - Phần nội dung 
I - Cơ sở Lý luận.
1) Vị trí nhiệm vụ môn tập làm văn:
Môn tập làm văn có nhiệm vụ chủ yếu là dạy học sinh viết ra các ngôn bản và viết tập làm văn còn là sản phẩm thể hiện rõ vốn hiểu biết , đời sống, trình độ văn hoá của học sinh , bài tập làm văn trở thành sản phẩm tổng hợp, là nơi trình bày kết quả đích thực của việc học tiếng việt.
2) Tiết dạy quan sát và tìm ý: 
Là tổ chức cho học sinh quan sát đối tượng miêu tả là 1 công việc thuận về nguyên tắc khi dạy học văn miêu tả. Trên cơ sở thu nhận trực tiếp các nhận xét, ấn tượng, cảm xúc giúp cho việc quan sát tốt hơn. từ đó hiểu biết và kỹ năng về văn miêu tả được hình thành 1 cách tự giác chủ yếu qua con đường thực hành.
Tiết học này mở đầu 1 quy trình dạy 1 kiểu bài, thông qua một bài cụ thể luyện cho học sinh hai kỹ năng.
- Tìm tư liệu cho đề bài để chuẩn bị tập làm văn.
- Cung cấp hiểu biết chung nhất mang tính lý thuyết về kiểu bài , loại bài.
3) Cơ sở tâm lý và cơ sở ngôn ngữ:
- ở lứa tuổi lớp 5, học sinh đang phát triển về hệ xương, hệ thần kinh ... 
- Các em đã có sự phát triển về trí tuệ, tâm hồn, các em thích quan sát mọi vật xung quanh. Khả năng tư duy cụ thể nhiều hơn khả năng khái quát hoá. Về tình cảm các em rất nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, các em dễ xúc động và bắt đầu biết mơ ước có trí tưởng tượng phong phú. Thích ghi lại các vấn đề mà mình đã quan sát được song vốn ngôn ngữ chưa phong phú, xắp xếp ý chưa có hệ thống và diễn đạt còn thiếu mạch lạc.
4) Chương trình và sách giáo khao:
Tập làm văn ở lớp 5 một tuần có 2 tiết, tổng cộng có 66 tiết/ năm học các thể loại:
	Miêu tả: - Tả người
	- Tả xảnh sinh hoạt 
Kể chuyện truyện xây dựng theo chủ đề
Tường thuật 	- Thuật việc 
	- Thuật chuyện 
Viết thư: 	- Thăm hỏi
	- Thư thuật chuyện.
Số tiết dạy học sinh quan sát tìm ý cho học sinh lớp 5 không nhiều 
- Tiết quan sát tìm ý tả người ( tuần 1).
- Tiết quán sát tìm ý tả cảnh sinh hoạt ( tuần 17)
Tiết học này mở đầu cho quy trình dạy 1 bài kiểu văn miêu tả cụ thể. Kết quả cuối cùng của tiết học này là học sinh phải tìm được ý cần thiết chuẩn bị cho việc làm bài văn theo yêu cầu của đề bài đã cho .
- Hình thành phương pháp kỹ năng quan sát cho những yêu cầu của các đề văn khác.
+ Sách giáo khoa : Sách tiếng việt lớp 5 và một số sách tham khảo.
II - Cơ sở thực tiễn:
1) Quan điểm của giáo viên và học sinh:
- Phần đông học sinh khi được hỏi các em có thích nghe phân tích cái hay, cái đẹp trong văn học không thì các em trả lời là (( Thích )) nhưng hỏi các em có thích học văn không thì nhiều em đều trả lời (( Không thích)) vì (( Khó học)).
Học sinh nói ngại viết.
Còn với giáo viên thì đa số giáo viên đều cho các tiết dạy học sinh quan sát, tìm ý “khó dạy”. Đây là các tiết mới có từ khi thực hiện SGK cải cách giáo dục, các chỉ dẫn về phương pháp giảng dạy còn sơ lược, kinh nghiệm giảng dạy của giáo viên về quan sát tìm ý chưa nhiều . Tuy vậy môn tập làm văn rất quan trọng là môn thi học sinh giỏi, thi tốt nghiệp nên cả giáo viên và học sinh rất coi trọng.
2) Thực trạng việc dạy giờ quan sát tìm ý ở trường tiểu học:
* Nội dung mức độ kỹ năng cần đạt được.
Đề bài tập làm văn ở lớp 5 thường chọn những đề bài gần gủi với học sinh và học sinh có điều kiện quan sát cụ thể đối tượng cần miêu tả.
* Mức độ kỹ năng cần đạt.
- Kỹ năng quan sát biết lựa chọn trình tự quan sát, biết sử dụng các giác quan để quan sát, quan sát cần đi vào trọng tâm của cảnh vật và người từ đó rèn luyện sự tinh tế trong quan sát.
* Phương pháp 
Trình tự tiết dạy thường được thiết kế như sau:
- Kiểm tra phần chuẩn bị của học sinh.
- Giới thiệu đề bài.
- Tìm hiểu đề.
- Đọc phấn hướng dẫn , ghi nhớ.
- Đọc phần quan sát, tìm ý của học sinh đã sắp xếp thành dàn ý.
- Cho nhận xét.
- Tổng kết, dặn dò.
* Thực tế học sinh đã học, đã thực hành và thu được kết quả gì qua giờ học.
- Học sinh quan sát còn đại khái, lướt qua nên không tìm được ý, do đó ý nghèo nàn, bài văn không có sáng tạo, học sinh ngại nói, ngại viết.
- Học sinh không biết ghi chép những gì mà mình quan sát được 1 cách rõ ràng chưa biết sắp xếp ý theo 1 trình tự hợp lý. Từ đó hạn chế tới việc nói và viết.
3) Nguyên nhân của những tồn tại.
- Sự hướng dẫn ở học sinh chưa thật cụ thể, dể hiểu.
- Sự chuẩn bị của giáo viên chưa thật chu đáo do đó hướng dẫn học sinh quan sát chưa kỹ.
- Học sinh thiếu sự tưởng tượng, ít cảm xúc về đối tượng miêu tả. không quan sát theo đúng yêu cầu. Với ngôn ngữ quá ít ỏi, nghèo nàn ... Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không tốt đến giờ dạy, không gây được hứng thú học tập của học sinh.
III - Biện pháp đề xuất:
Để giúp học sinh có hứng thú học tập ở khả năng quan sát, tìm ý cho bài tập làm văn tốt, tôi có 1 số giải phảp sau đây:
1) Người giáo viên phải xác định rõ nhiệm vụ của môn tập làm văn và nhiệm vụ của giờ quan sát, tìm ý.
Chúng ta phải xác định dạy học sinh môn tập làm văn là giúp cho các em nói, viết lưu loát, học sinh phát triển vốn từ ngữ, bồi dưỡng cảm xúc tình cảm lành mạnh, trong sáng, khả năng lựa chọn sắp xếp ý rõ ràng. Rèn khả năng tư duy, trí tưởng tượng phong phú. Qua đó vốn sống của các em được tăng lên giúp các em tự tìm, có khả năng ứng xử linh hoạt trong cuộc sống.
2) Những việc cần chuẩn bị.
a) Chọn đề bài tập làm văn. Chọn những đề bài phù hợp, gần gủi với học sinh, các em có khả năng trực tiếp quan sát.
Ví dụ: Tả hình dáng tính tình của cô giáo... của mẹ.... của người thân, hay, tả quang cảnh sân trường trong giờ ra chơi...
b) Đực kỷ yâu cầu của đề bài.
Đây là khâu chuẩn bị rất quan trọng của cả giáo viên và học sinh .
- Học sinh đọc kỷ đề bài.
- Phân tích đề bài bằng cách đặt ra các câu hỏi ( bài văn thuộc thể loại gì ? nội dung bài văn là gì ? kiểu bài văn ? trọng tâm ? muốn làm bài tốt cần quan sát những gì ?.
c) Hướng dẫn học sinh quan sát : 
Giáo viên cho học sinh biêt quan sát để làm tập làm văn và quan sát tìm hiểu khoa học có mục đích khác nhau:
Mục đích quan sát khoa học là tìm ra công dụng cấu tạo của sự vật, đặc điểm, tính chất của hiện tượng.
Quan sát văn học là tìm ra màu sắc, âm thanh, hình ảnh tiêu biểu và cảm xúc của người đối với sự vật.
+ Quan sát bằng nhiều giác quan.
Quan sát bằng mắt: Nhận ra màu sắc, hình khối, sự vật.
Quan sát bằng tai: Âm thanh, nhịp điệu gợi cảm xúc.
Quan sát bằng mủi: Những mùi vị tác động đến tình cảm.
Quan sát bằng vị giác và xúc giác: Quan sát cảm nhận
Nhờ cách quan sát này mà các em ghi nhận những ý, nhờ đó bài văn đa dạng phong phú.
+ Quan sát tỉ mỉ nhiều lượt.
Nhận tìm ý cho bài văn , học sinh phải quan sát kỹ, quan sát nhiều lần cảnh đó, tránh quan sát qua loa như ta nhìn lướt qua, hay liếc nhìn nó thì sẽ không tìm ra những ý hay cho bài văn.
+ Học sinh cần xác định rõ vị trí, thời điểm, thời gian, trình tự quan sát.
- Học sinh có thể lựa chọn các trình tự trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên, từ trài sang phải hay từ ngoài vào trong.
Trình tự thời gian, quan sát từ sáng đến tối, từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc...
Trình tự tâm lý, thấy nét gì nổi bật thu hút bản thân, gây cảm xúc quan sát trước.
d) Học sinh học sinh nắm được yêu cầu quan sát của bài văn. 
Phải tìm được những nét riêng tiêu biểu của sự vật. Không cần đầy đủ sự việc, chỉ cần chép lại những đặc điểm mà mình cảm nhận sâu sắc nhất không thống kê tỷ nỉ mọi chi tiết về sự vật.
Để làm được bài văn đúng yêu cầu của đề bài, quá trình quan sát không thể dàn đều mà phải tìm ra trọng tâm để tìm hiểu kỹ trọng tâm quan sát từng là nét chính của bài nỗi bật chủ đề của bài văn và dùng ý của người viết có như vậy bài viết mới tránh khỏi dàn trải, nhạt nhẽo, lan man xa đều tạo ra hứng thú, cảm xúc.
Quan sát trong văn học cần giúp cho học sinh có hứng thú và say mê, từ đó bộc lộ được cảm xúc của bản thân trước đối tượng quan sát, có hứng thú , cảm xúc học sinh mới dể dàng tìm từ , chọn ý giúp cho việc diễn tả sinh động và hấp dẫn.
e) Giáo viên phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý hướng dẫn học sinh quan sát:
Ví dụ: Thể loại của bài văn là gì?
	Kiểu bài văn là gì ?
	Trọng tâm miêu tả cảnh nào ?
	Quan sát cảnh đó vào lúc nào ?
	Quan sát theo thứ tự nào ?
	Quan sát bằng những giác quan nào ?
	Quan sát như vậy nhìn thấy cảnh gì ? 
	Nghe thấy âm thanh gì ? Có cảm xúc gì ?
	Có nhận xét gì qua những quan sát đó.
3) Tổ chức cho học sinh quan sát:
Tuỳ theo đề bài, giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát ngay tại địa điểm có cảnh vật cần tả. Nếu không thể tổ chức quan sát được thì giáo viên học sinh học sinh cảnh vật trước khi lới lớp và ghi lại những điều ghi nhận được.
Học sinh phải tự làm việc, tự quan sát, tự ghi chép là chính.
Giáo viên có thể nêu những câu hỏi chung cả lớp.
Giáo viên có thể có những câu hỏi gợi mở , học sinh trả lời miệng hoặc giáo viên chỉ cần gợi ý với một học sinh nào đó thực hiện.
Giáo viên giành thời gian tối đa cho hoạt động này, học sinh có thể ngồi yên 1 chỗ, để có vị trí thích hợp quan sát , các em có thể dịch chuyển vị trí các em có thể thảo luận nhóm để tìm ý.
Giáo viên có thể gợi ý các em phát hiện những nét đặc sắc của bầu trời, cây cối, cảnh vật... 
4) Quy trình lên lớp:
a) Giáo viên kiểm tra phần chuẩn bị của học sinh
b) Lên lớp:
Giới thiệu đề bài, viết đề bài
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, nắm chắc đề bài.
Thể loại 
Kiểu bài 
Đối tượng miêu tả.
Trọng tâm 
Cảnh đó diễn ra ở đâu lúc nào ?
Giáo viên vừa gợi ý, vừa gạch dưới những từ quan trọng.
5 - Hoàn chỉnh bài chuẩn bị
Học sinh đọc hướng dẫn và ghi nhớ
6 - Học sinh trình bày những điều quan sát được đã sắp xếp theo trình tự.
Học sinh trình bày 
Học sinh nhận xét: Đã quan sát tỉ mỉ chưa:
	Đã sắp xếp theo trình tự hợp lý chưa?
	- Đã có trọng tâm chưa? 
	- Hoạt động nào để tả chính ?
	- Đã chọn lọc nét tiêu biểu chưa ?
	- Đã bộc lộ được cảm xúc khi tả chưa ?
7 - Củng cố: Một em đọc phần tìm ý tương đối hoàn chỉnh.
Dặn dò: Tiếp tục quan sát, bổ sung cho dàn bài chi tiết.
Chú ý tìm từ câu sinh động để diễn tả những điều quan sát được.
IV - Kết hợp các yếu tố giáo dục khác:
Như chúng ta đã biết, muốn giỏi văn phải tích luỹ được 1 vốn văn học đáng kể, học sinh phải có khả năng quan sát tinh tế, giầu trí tưởng tượng, giầu tư duy hình tượng, vốn từ phong phú, nhận thức được vấn đề này nên tôi đã có 1 số biện pháp để bồi dưỡng vốn từ và cảm thụ văn học của các em.
a) Bồi dưỡng quan phân môn tiếng việt.
- Qua các bài tập đọc, tôi đã hướng dẫn các em về cách dùng từ nhữ, hình ảnh hay, phân tích tâm trạng cảm xúc của nhân vật qua các bài văn.
Ví dụ: ở bài thơ: Ngày em vào đội ( TV 5 tập 1) có khổ thơ.
	“ Nắng vườn trưa mênh mông.
	Bướm bay như lời hát
	Con tàu là đất nước.
	Đưa ta tới bến xa”
Tôi đã cho học sinh nhận xét các hình ảnh đẹp trong khổ “Nắng trưa” “Bướm bay” “ Con tàu” ... và các em biết tác giả đã dùng hình ảnh so sánh. Bướm bay -Lời hát- Con tàu - Đất nước.
Khi dạy bài về miền đất đỏ tôi đã phân tích về bố cục và cách tường thuật.
Dạy bài buổi sáng mùa hè trong thung lũng, tôi đã khắc sâu cho các em về nghệ thuật miêu tả dùng từ láy, thứ tự miêu tả bố cục của bài văn qua đó học sinh học tập được cách quan sát, sắp xếp ý của tác giả. Khi tìm hiểu nội dung bài “ Đêm trăng hành quân về đồng bằng” học sinh tìm hiểu được từ cách miêu tả cảnh bộ đội hành quân trong 1 đêm trăng đẹp đến việc khai thác tâm trạng của các anh bộ đội khi tiến về giải phóng đồng bằng.
Học đến bài “ Tiếng hát mùa gặt “ Hạt gạo làng ta, tôi cung cấp thêm cho học sinh nghệ thuật tư từ, cách miêu tả giầu cảm xúc và sử dụng các hình ảnh đối lập. Qua đó học sinh biết cách quan sát tinh tế có chọn lọc khi miêu tả.
Cùng với phân môn tập đọc, môn từ ngữ và ngữ pháp cũng có thể làm giầu vốn từ ngữ cho học sinh việc tổ chức trò chơi là biện pháp sinh động để học sinh bồi dưỡng vốn từ.
Tự đánh giá kết quả thực hiện.
Qua việc giảng dạy theo các quy trình trên, tôi thấy giờ văn quan sát, tìm ý của lớp tôi dạy đã đạt kết quả khá tốt.
- 100% học sinh nắm được thể loại, yêu cầu của đề bài.
- 100% học sinh có khả năng quan sát, tìm ý.
- 100% học sinh kiểm tra đạt từ điểm trung bình trở lên.
Các bài kiểm tra định kỳ phân môn tập làm văn các em làm bài đạt từ trung bình trở lên là 100%.
C - Kết luận và kiến nghị :
Hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý trước khi làm bài tập làm văn thực sự là 1 vấn đề cần thiết và quan trọng.
Giáo viên phải tạo điều kiện cho các em đến tận nơi quan sát đối tượng được miêu tả, coi việc tổ chức cho các em quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả, giáo viên phải dạy tốt tiết quan sát tìm ý. Trong tiết học đó, học sinh phải tập quan sát bằng nhiều giác quan khác nhau . Tuy vậy giáo viên cũng cần hướng dẫn các em quan sát, phải huy động vốn sống, khả năng tưởng tượng và cảm xúc rồi ghi chép lại trong giờ học thầy phải hướng dẫn các em, nhận xét , uốn nắn, chuẩn bị ứng phó các tình huống sư phạm, giờ tập làm văn đảm bảo theo hướng đối mới phương pháp dạy học, các em được học tập tích cực, chủ động và sáng tạo suy nghỉ độc lập, tự nhiên không gò bó, rập khuôn, máy móc. Tuy nhiên học sinh vần còn 1 số khó khăn khi quan sát, tìm ý. Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt và sáng tạo trong việc hướng dẫn học sinh, giáo viên phải động viên và khuyến khích các em mạnh dạn tích cực hơn , có như vậy, học sinh mới có thể học tốt môn tập làm văn ở lớp cuối cấp này.
Trên đây là 1 số suy nghỉ tìm tòi của tôi trong quá trình dạy học sinh quan sát tìm ý. Do không có nhiều thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm chưa nhiều tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân tình của ban giám hiệu nhà trường, các bạn đồng nghiệp để tôi có thể hoàn thiện mình hơn , để việc dạy dỗ thế hệ trẻ ngày càng đạt kết quả tốt hơn .
Tôi xin chân thành cảm ơn !.
Ngày........tháng.........năm 2005 
Người viết 
Trần Thị Hương

File đính kèm:

  • docskn.doc