Đề tài Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn tập làm văn lớp 5

Trong đó thể loại văn miêu tả khá trọng tâm và quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp 5. Bởi văn miêu tả là hình thức dùng ngôn từ phác họa ra các sự vật, sự việc, hiện tượng, con người một cách sinh động, cụ thể. Văn miêu tả giúp người đọc nhìn rõ chúng, tưởng như mình đang: “ Xem tận mắt, bắt tận tay”. Nhưng bản thân tôi khi vận dụng sáng kiến vào giảng dạy

doc13 trang | Chia sẻ: rimokato | Lượt xem: 4443 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn tập làm văn lớp 5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất lượng của học sinh trong việc học phân môn Tập làm văn nói riêng. Từ những kinh nghiệm được tích lũy trong thực tiễn đó, tôi xin trình bày thành đề tài sáng kiến cụ thể là: “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn lớp 5”. Mặc dù chỉ là sáng kiến của cá nhân, sau khi được áp dụng vào thực tế giảng dạy học sinh của lớp mình phụ trách, đã đạt được một số kết quả tốt hơn. 
II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Mục đích: 
 	Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất một số biện pháp, qua việc đổi mới phương pháp dạy phân môn Tập làm văn ở lớp 5, nhằm giúp học sinh học Tập làm văn một cách tốt hơn. Qua đó cũng góp phần giúp các em học tốt các môn học khác.
2. Phương pháp: 
- Giáo viên nghiên cứu Sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo, chuẩn bị kế hoạch thực hiện cụ thể trong từng tiết dạy.
- Giáo viên hướng dẫn, gợi ý cho học sinh học tập trên lớp.
- Giáo viên dẫn dắt, gợi mở và minh họa bằng đồ dùng học tập ( tranh ảnh, vật thật).
- Giáo viên thống kê số liệu, tỉ lệ kết quả của học sinh lớp dạy trong hai năm học trước và khảo sát đầu năm học của lớp dạy trong năm học này. 
- Giáo viên phân tích và xử lý số liệu để so sánh, đối chiếu để thấy hiệu quả ứng dụng sáng kiến mới trong quá trình giảng dạy.
III. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
 	Phạm vi nghiên cứu là học sinh lớp 5C Trường Tiểu học Sơn Đông. Phân môn Tập làm văn trong chương trình lớp 5 có nhiều thể loại, đề tài này chỉ trình bày về kinh nghiệm dạy Tập làm văn miêu tả.
IV. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU:
Nếu trước trước đây dạy phần Tập làm văn miêu tả trong môn Tiếng việt lớp 5 theo đặc thù bộ môn một cách thông thường, thì vẫn giúp hoc sinh tiếp thu và hiểu bài. Nhưng kết quả thực tế cho thấy tỉ lệ học sinh Khá - Giỏi không cao và tỉ lệ học sinh trung bình cao, trong đó vẫn có học sinh xếp loại yếu.
Sau thời gian đúc kết một số giải pháp nhằm đổi mới phương pháp dạy phần làm văn trong chương trình lớp 5, cụ thể là trong một thời gian nhất định. Tôi nhận thấy học sinh tiếp thu tốt hơn, tỉ lệ học sinh Khá – Giỏi đươc nâng cao và tỉ lệ học sinh trung bình, yếu giảm xuống.
V. CƠ SỞ LÍ LUẬN KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN:
1. CƠ SỞ KHOA HỌC: 
 	Chương trình giáo dục lớp 5, lớp cuối cấp của bậc tiểu học đóng một vai trò hết sức quan trọng. Cùng với một số môn học khác, thì môn Tiếng Việt góp phần giáo dục và phát triể toàn diện cho học sinh, trước khi bước vào bậc THCS. Nên qua các bài học giúp học sinh hiểu biết thêm về thiên nhiên, về cuộc sống gần gũi xung quanh, về đất nước, con người Việt NamTrong chương trình Tiếng Việt lớp 5 mới, bên cạnh các phân môn Tập đọc, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câuPhân môn Tập làm văn góp phần rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt: Nghe- nói- đọc- viết. Bên cạnh, thông qua học Tập làm văn, học sinh có điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề Tập làm văn, học sinh có dịp hướng tới cái “Chân- thiện- mĩ” được định hướng trong các đề bài. Những kiến thức cơ bản đó đã làm nảy sinh tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, với con người và những việc xung quanh của các em. Từ đó giúp cho tâm hồn, tình cảm của các em trong sáng và phong phú. Đó là những nhân tố quan trọng, góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp của các em.
 	Chính vì vậy, việc hình thành và rèn luyện kĩ năng làm Tập làm văn cho học sinh là một yêu cầu rất cần thiết.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Để thấy rõ hơn thực tế hiệu quả khi áp dụng sáng kiến bằng một số giải pháp cụ thể. Tôi đã thống kê bằng hình thức so sánh, đối chiếu kết qủa của năm học trước. Từ đó làm cơ sở thực tiễn để có kế hoạch thực hiện dạy Tập làm văn lớp 5 tốt hơn.
 	Trong năm học: 2012- 2013, tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công giảng dạy lớp 5C với sĩ số là 24 học sinh. Qua kết quả thi khảo sát đầu năm, tôi thống kê được chất kết quả học sinh qua việc học phân môn Tập làm văn như sau:
Bảng 2.1. Khảo sát đánh giá chất lượng đầu năm học 2012-2013:
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
24
2
8.35
3
12.5
14
58.35
5
20.8
Nhận xét: Từ bảng 2.1 cho thấy tỉ lệ học sinh Khá – Giỏi thấp, tỉ lệ học sinh yếu và học sinh TB chiếm tỉ lệ cao. 
Qua một năm tìm tòi, sáng kiến các biện pháp rèn kĩ năng viết văn cho học sinh, tôi nhận thấy các em có nhiều tiến bộ, kết quả đạt được cuối năm học như sau:
Bảng 2.2. Khảo sát đánh giá chất lượng cuối năm học 2012-2013:
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số lượng
Tỉ lệ 
Số lượng
Tỉ lệ 
Số lượng
Tỉ lệ 
Số lượng
Tỉ lệ 
24
5
20.8
6
25
12
50
1
4.2
Nhận xét: Từ bảng 2.2 cho thấy tỉ lệ học sinh Khá – Giỏi cao hơn nhiều so với đầu năm. Đồng thời tỉ lệ học sinh TB và học sinh Yếu giảm đi. 
VI. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN:
Năm học 2013- 2014 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công trực tiếp giảng dạy và phụ trách lớp 5C với sĩ số là 24 học sinh, trong đó có 15 học sinh nữ. Vào đầu năm học tôi tiếp tục làm khảo sát tỉ lệ học sinh, và từ đó có kế hoạch giảng dạy.
BảngVI. Khảo sát đánh giá chất lượng đầu năm học 2013-2014:
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
24
2
8.35
4
16.65
14
58.35
4
16.65
Nhận xét: Từ bảng VI cho thấy tỉ lệ học sinh Khá – Giỏi thấp bằng tỉ lệ học sinh yếu và học sinh TB chiếm tỉ lệ cao. 
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. THỰC TRẠNG VÀ MÂU THUẪN:
1. Thực trạng:
* Trước khi áp dụng: 
 	Qua một thời gian giảng dạy phân môn Tập làm văn theo chương trình sách giáo khoa mới, tôi nhận thấy việc dạy và học phân môn Tập làm văn có một số khó khăn nhất định đó là:
 	- Đa số học sinh tỏ ra lúng túng khi làm bài, do vốn từ ngữ của các em còn nhiều hạn chế, chưa biết cách mở rộng câu đúng thành câu hay.
 	- Các em chưa nắm chắc cách trình bày bài văn.
 	- Chưa biết cách sử dụng câu nêu ý chính bao trùm cho cả đoạn văn, cách chuyển ý giữa các đoạn, làm cho các đoạn văn trong bài văn còn rời rạc và chưa logic.
 	- Trong khi viết các em chưa biết cách sáng tạo và bộc lộ cảm xúc của mình.
- Một số em sử dụng biện pháp so sánh nhưng còn cứng nhắc.
* Sau khi áp dụng: 
 	Từ những lí do trên, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 5C trong năm học 2013-2014 này. Tôi lại vận dụng những giải pháp mà bản thân sáng kiến và thử nghiệm trong năm học trước. Đồng thời linh hoạt điều chỉnh một số giải pháp cho phù hợp với đối tượng học sinh, nhằm đạt được mục tiêu mà bản thân đề ra, góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy trong năm học này và những năm học tới.
2. Mâu thuẫn: 
 Trong chương trình hướng dẫn giảng dạy phần Tập làm văn lớp 5 cũng đặt ra một số vấn đề cơ bản, từ đó giáo viên vận dụng vào mỗi tiết học. Nhưng thực tế giảng dạy có nhiều đối tượng học sinh với những khả năng khác nhau. Đòi hỏi muốn giảng dạy có hiệu quả, đòi hỏi giáo viên phải tìm tòi, sáng kiến. Khi nghiên cứu chương trình Tập làm văn lớp 5, tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn trong chương trình lớp 5 gồm các tuyến kiến thức:
 	- Văn miêu tả gồm có: 	+ Tả cảnh.
 	+ Tả người.
 	- Các loại văn bản khác:	+ Báo cáo thống kê.
 	+ Làm đơn.
 	+ Thuyết trình tranh luận.
 	+ Làm biên bản
 	Trong đó thể loại văn miêu tả khá trọng tâm và quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp 5. Bởi văn miêu tả là hình thức dùng ngôn từ phác họa ra các sự vật, sự việc, hiện tượng, con ngườimột cách sinh động, cụ thể. Văn miêu tả giúp người đọc nhìn rõ chúng, tưởng như mình đang: “ Xem tận mắt, bắt tận tay”. Nhưng bản thân tôi khi vận dụng sáng kiến vào giảng dạy, cũng chỉ mới áp dụng cho phầnTập làm văn miêu tả, mà chưa áp dụng rộng ở các thể lại và phân môn khác. Đồng thời sáng kiến cũng chỉ là ý kiến chủ quan của cá nhân đề xuất, nên phạm vi nghiên cứu còn hẹp. Vì vậy; chưa dám khẳng định sẽ có hiệu quả cao, khi áp dụng cho những đối tượng học sinh lớp khác và phân môn khác.
II. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
 	Đối với học sinh lớp 5 ở địa bàn tôi trực tiếp giảng dạy, vốn ngôn ngữ của các em còn rất nhiều hạn chế. Đặc biệt là các em chưa biết cách trau chuốt, gọt dũa lời văn, câu văn cho bóng bẩy, để nó mang tính “nghệ thuật”, mà đa số các em nghĩ sao viết vậy. Cho nên việc trước tiên là giáo viên phải nắm bắt rõ các phân môn trong môn Tiếng Việc, nhất là phân môn luyện từ và câu. Vì luyện từ và câu cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh, uốn nắn cho các em kĩ năng dùng từ, đặt câu, hướng cho các em từ cách quen sử dụng “ ngôn ngữ tự nhiên” chuyển thành kĩ năng sáng tạo ngôn ngữ “ nghệ thuật”. Kết quả cuối cùng của dạy Tập làm văn, là kết quả của những bài văn cụ thể. Bài văn hay là bài văn đạt tốt các yêu cầu về nội dung, kĩ năng và cảm xúc. Vì vậy trong mỗi giờ Tập làm văn, giáo viên cần thực hiện tốt các yêu cầu này.
Ở lớp 5 để viết bài văn miêu tả, học sinh thường trải qua các khâu cơ bản là: 
 	- Tìm hiểu cấu tạo của bài văn tả cảnh hoặc tả người.
 	- Phân tích các văn bản mẫu.
 	- Quan sát lập dàn ý chi tiết.
 	- Viết thành bài văn hoàn chỉnh.
 	- Học tập, rút kinh nghiệm qua giờ trả bài.
 	 	Để tiến hành mỗi hoạt động trong từng tiết học có hiệu quả, giáo viên lần lượt phải thực hiện linh hoạt các bước sau:
1. Cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh:
 	Để học sinh học tốt phân môn Tập làm văn, trước hết thực hiện yêu cầu của đề bài nào đó, qua đó giáo viên cần giúp hoc sinh hệ thống hóa các từ ngữ thuộc chủ đề bài học, để học sinh có vốn từ ngữ khi vận dụng vào làm bài. Từ đó giúp các em đỡ lúng túng khi sử dụng từ ngữ khi viết.
 	Ví dụ: Khi dạy bài Tập làm văn: Viết một đoạn văn tả cảnh sông nước ( Tiếng Việt 5- Tập 1- trang 74).
 	 	Giáo viên cần giúp học sinh hệ thống hóa các từ ngữ thuộc chủ đề sông nước như: lăn tăn; êm đềm ; man mác; quanh co, xanh thẳm, lung linh
2. Mở rộng câu đúng thành câu hay:
 	Do kĩ năng đặt câu của học sinh còn nhiều hạn chế, nên giáo viên cần giúp cho các em ôn luyện cách đặt câu đúng, và biết cách mở rộng thành câu hay để sử dụng trong bài văn.
 	Ví dụ: Khi dạy bài : Viết đoạn văn tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong vườn cây (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy). ( Tiếng Việt 5- Tập 1- trang 22). Sau khi giúp học sinh xác định đề bài, giáo viên cần giúp các em cách đặt câu đúng và từ câu đúng mở rộng thành câu hay vận dụng vào bài làm. 
+ Chẳng hạn: Mặt trời mọc (câu đúng). Mở rộng: “Ở chân trời phía Đông, ông mặt trời từ từ dâng cao trên đỉnh núi”. Hoặc “Mặt trời vừa nhô lên khỏi rạng tre, xua tan những đám sương mù dày đặc” 
+ Chim hót (câu đúng). Mở rộng: “Trong vòm lá xanh, con chim chào mào hót líu lo như đón chào ngày mới”
3. Tìm hiểu cấu tạo bài văn tả cảnh hoặc tả người;
 	- Từ một văn bản mẫu, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định mở bài, thân bài, kết bài của bài văn tả cảnh, tả người.
 	- Cho học sinh rút ra ghi nhớ về cấu tạo của bài văn tả cảnh, tả người.
 	- Sau đó lưu ý cho học sinh về cách trình bày bài văn sao cho tách bạch rõ 3 phần của một bài tập làm văn.
4. Phân tích các văn bản mẫu:
 	 	Với các văn bản mẫu, giáo viên hướng dẫn học sinh tập trung vào việc tìm hiểu cái hay, cái đẹp trong bài văn. Đồng thời cũng chú tâm vào việc tìm hiểu cách sử dụng các giác quan khi quan sát và cách chọn lọc chi tiết để tả. Ngoài ra còn có thể kết hợp với việc quan sát các cảnh vật thông qua tranh, ảnh.
 	Ví dụ: 
* Bài “ Luyện tập tả cảnh” - Sách Tiếng Việt 5- Tập 1 – trang 14.
- Cho học sinh đọc bài văn “ Buổi sớm trên cánh đồng”. 
- Giáo viên hướng dẫn cho học sinh phân tích bài văn bằng các câu hỏi:
 	+ Tác giả tả những sự vật gì trong buổi sớm mùa thu?
+ Tác giả quan sát sự vật bằng những giác quan nào?
+ Tìm một chi tiết thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả.
- Sau khi tìm hiểu xong bài văn, giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh thấy nghệ thuật quan sát và chọn lọc chi tiết tả cảnh của tác giả.
* Bài “ Luyện tập tả cảnh’ – Tiếng Việt 5- Tập 1- trang 21.
- Yêu cầu của bài này là học sinh phân tích hai văn bản “ Rừng trưa’’ và “ Chiều tối” để thấy được những hình ảnh đẹp trong mỗi bài văn.
 - Cách tiến hành bài này là :
 + Cho học sinh đọc lần lượt từng bài văn.
 + Giáo viên giới thiệu tranh ảnh về rừng tràm cho học sinh quan sát.
 	+ Cho học sinh nêu ý kiến về hình ảnh mà các em thích trong mỗi bài văn. Có thể yêu cầu các em nêu lí do vì sao mình thích hình ảnh đó.
- Giáo viên cần tôn trọng ý kiến học sinh, đặc biệt khen ngợi những em tìm được những hình ảnh đẹp.
- Sau cùng, giáo viên chốt lại những hình ảnh đẹp từng bài văn và hướng cho học sinh đưa ra những hình ảnh đẹp vào bài văn miêu tả.
5. Quan sát lập dàn ý chi tiết:
 	Để làm tốt được bài văn miêu tả, giáo viên yêu cầu học sinh có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Đó là nhắc các em quan sát kĩ cảnh vật, sự vật hoặc một người nào đó trước khi vào học bài mới, điều này giáo viên nhắc nhở các em trong phần dặn dò cuối buổi học. Bởi học sinh hay nghĩ rằng với cảnh vật quen thuộc hàng ngày, thì không cần quan sát lại, điều này là hoàn toàn sai lầm. Sự tiếp xúc hằng ngày chỉ cho ta nhận biết hời hợt, chung chung, chưa toàn diện. Có quan sát kĩ nhiều mặt, nhiều lượt bằng nhiều giác quan thì mới có những hiểu biết đầy đủ, phong phú và chính xác. Quan sát trực tiếp còn cho ta cảm xúc “ nóng hổi” để đưa vào bài viết, tránh được sự tẻ nhạt.
 	Bên cạnh, giáo viên cần nhắc các em quan sát phải đi đôi với việc tìm từ ngữ để diễn tả đúng và sinh động điều đã quan sát được.
 	Cân nhắc để lựa chọn được một thứ tự sắp xếp các chi tiết sẽ tả mà mình coi là thích hợp hơn cả.
 	Khi vào học bài mới, giáo vên luôn luôn nhắc học sinh nhớ: Mỗi bài văn cần có bố cục 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Với mỗi bài văn, công việc đầu tiên của tôi là yêu cầu học sinh tìm hiểu đề bài, học sinh đọc kĩ đề bài nhiều lần rồi trả lời các câu hỏi về vấn đề chính trong đề bài. Đề bài thuộc thể loại gì? Đề bài yêu cầu tả gì?
 	 	Giáo viên gạch chân bằng phấn màu dưới các từ ngữ quan trọng để học sinh chú ý. Nếu đối tượng miêu tả không thực tế và gần gũi với học sinh (Tả cảnh con sông, tả cảnh ở công viên,), thì giáo viên cần giới thiệu một số tranh ảnh minh họa cho học sinh quan sát.
 	 	Hướng dẩn học sinh lập dàn ý từ những điều quan sát được.
 	Ví dụ: * Quan sát trường em. Từ những điều đã quan sát được, lập dàn ý cho bài văn miêu tả ngôi trường (sách Tiếng Việt 5 - Tập 1 - Trang 43)
 	Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý, nhắc học sinh một số điểm lưu ý:
 	+ Có thể tả ngôi trường vào một thời điiểm nhất định (sáng, trư , chiều mùa đông - mùa hè..). Cũng có thể tả ngôi trường với cảnh sắc thay đổi theo thời gian (Từ sáng đến chiều, từ mùa xuân đến mùa hè).
 	+ Nên tả theo trình tự quan sát từ xa đến gần, từ ngoài vào trong hoặc ngược lại, tả gần đến xa , từ trong ra ngoài.
 	+ Ngôi trường nào cũng gắn với các hoạt động của thầy và trò.Tuy nhiên chỉ nên tả lướt qua hoạt động này, để không biến bài văn tả cảnh thành bài văn tả cảnh sinh hoạt.
 	Sau khi nêu một số điểm lưu ý để học sinh nhớ, giáo viên hướng dẫn học sinh cách lập dàn bài.
- Giúp học sinh nắm yêu cầu của bài: Miêu tả ngôi trường.
- Nhắc học sinh: Dàn ý cũng cần có đủ ba phần: Mở bài, thân bài, kết bài.
- Phần mở bài cần giới thiệu bao quát:
 	+ Vị trí của ngôi trường: Ngôi trường nằm ở đâu? Quay mặt về hướng nào? 
 	+ Nêu đặc điểm nổi bật của ngôi trường.
Phần thân bài gồm các ý: Tả từng phần của cảnh trường:
 	+ Cổng trường (cổng như thế nào? Bảng tên trường ra sao?)
 	+ Sân trường (Sân trường ra sao? Cột cờ,cây cối như thế nào?)
 	+ Lớp học (Các tòa nhà như thế nào? Các lớp học được trang trí ra sao?)
- Phần kết bài cần nêu cảm nghĩ của em về ngôi trường.
 	Như vậy, mỗi em mỗi ý, mỗi vẻ khác nhau nhưng đều đảm bảo đủ ý chính.
6. Chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn: 
 	Để học sinh diễn đạt bài văn của mình một cách sinh động, có nghệ thuật, các em thường được trau dồi qua tiết học “Chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn”.
- “Một phần của dàn ý” có thể là mở bài, kết bài, cũng có thể là một phần của thân bài.
- Phần này, giáo viên cần nhắc nhở các em vận dụng cách mở rộng câu đúng thành câu hay để đưa vào bài văn.
* Phần mở bài:
 Các em có thể mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp, có em có thể mở bài chỉ bằng một câu, nhưng cũng có em mở bài bằng cả một đoạn văn. Nhưng không ai được tách rời nội dung đã xây dựng được. Ở đây, tùy nghệ thuật vào bài văn của mỗi em mà giáo viên góp ý không nên gò bó áp đặt.
Ví dụ:
* Đề bài: “Miêu tả một cảnh sông nước (Một vùng biển, một con sông, một con suối hay một hồ nước) (Tiếng việt 5- Tập một - Trang 62). 
- Có em mở bài thẳng luôn vào đề: “Quê em có một con suối rất đẹp”.
- Có em mở bài rất sinh động: “Mỗi miền quê có một vẻ đẹp riêng. Quê hương tôi có một dòng suối hiền hòa quanh năm nước chảy”.
 	Nhờ khuyến khích học sinh diễn đạt phần mở bài bằng những cách khác nhau, mà vẫn đảm bảo nội dung chính, các em đã viết được nhiều bài văn hay, có tính nghệ thuật.
* Phần thân bài:
- Đa phần các em rơi vào tình trạng liệt kê các chi tiết của cảnh, hoặc của người.
 	Ví dụ: Mẹ em có mái tóc dài, dáng người cao, hàm răng trắng,Vì vậy giáo viên cần lưu ý cách mở rộng câu đúng thành câu hay, để học sinh vận dụng thì bài văn sẽ hay hơn.
 	- Điều quan trọng là lưu ý cho học sinh phải bám vào các chi tiết đã lập ở dàn bài, để chuyển thành bài văn, đoạn văn. Tránh một số trường hợp học sinh viết bài văn một cách ngẫu hứng, không bám theo dàn ý đã lập, làm cho bài văn có thể sẽ mất đi tính lôgic hay tính cân đối, do không chủ động được thời gian.
* Phần kết bài:
Có nhiều cách kết bài khác nhau: kết bài mở rộng, kết bài không mở rộng, nhưng tất cả đều phải xuất phát từ nội dung chính. Vì vậy, giáo viên cần giúp các em nêu cảm xúc một cách chân thực, tránh sáo rỗng. Đồng thời mở rộng thêm về ý thức, trách nhiệm giữ gìn đối với cảnh và nêu việc làm cụ thể để bày tỏ cảm xúc chân thực.
7. Viết thành bài văn hoàn chỉnh:
Để giúp học sinh viết một bài văn hoàn chỉnh, tôi tiến hành các bước:
+ Tập diễn đạt câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp nghệ thuật đã học.
- Để tiến hành, tôi gợi ý cho các em những câu hỏi dễ hiểu, dễ nhớ.
- Tôi luôn hướng dẫn các em biết cách lựa chọn chi tiết, diễn đạt bằng câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp tu từ đã học như: so sánh, nhân hóatrong các kiểu bài tập làm văn.
+ Tuy nhiên khi vận dụng những hình ảnh so sánh, nhân hóa đôi khi học sinh dùng những hình ảnh chưa chính xác.
* Chẳng hạn với đề bài: “Tả một người thân trong gia đình em”. Có em chọn tả chị gái của mình.Tôi hỏi:
+ Hình dáng (mái tóc, hàm răng, nước da) của chị tả như thế nào?
- Học sinh nêu:
+ Mái tóc của chị đen và dài như những sợi dây.
+ Nước da của chị đen như mun.
+ Răng của chị rất trắng
- Chính vì thế, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết cách dùng những hình ảnh so sánh hợp lí hơn.
Ví dụ: Mái tóc của chị gái em đen và mượt mà như dòng suối xõa xuống ngang vai. Mỗi khi chị cười để lộ hành răng trắng đều như hạt bắp. Chị em có làn da ngăm đen nhưng trông chị rất có duyên.
- Tương tự, trong các đề bài khác giáo viên cũng nên hướng dẫn cho các em:
+ Cô hiền như cô Tấm trong truyện cổ tích.
+ Mái tóc của bà trắng như mái tóc của các diễn viên trong tuồng chèo.
- Ngoài ra, giáo viên nên kết hợp những câu hỏi gợi ý để giúp học sinh bổ sung, sửa chữa các câu văn, đoạn văn chưa sử dụng biền pháp nghệ thuật.
8. Bộc lộ cảm xúc trong bài văn:
- Ngoài việc giúp học sinh sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các câu văn, giáo viên cần giúp học sinh biết bộc lộ cảm xúc trong bài văn. Bởi một bài văn hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết. Cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết bài, mà còn cần thể 
hiện trong từng câu, từn đoạn của bài văn. Điều này chúng ta cần gợi ý cho các em một cách cụ thể trong từng bài.
Ví dụ:
- Được sống với ông bà em thấy như thế nào?
(Bà gần gũi, chăm sóc em chu đáo như một bà tiên hiền hậu, em luôn giúp bà làm mọi việc để bà đỡ vất vả).
- Được bà chăm sóc hằng ngày em nghĩ gì?
(Tình cảm gần gũi thương yêu của bà, như chắp cánh cho em vững bước trong cuộc đời)
Tương tự như vậy, tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc nhận xét trước một sự vật, hay một hiện tượng bất kì.

File đính kèm:

  • doclop 5.doc