Đề tài Một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa

Vậy từ 'đồng" thứ nhất là đơn vị tiền Việt nam, từ "đồng" thứ 2 nằm trong mối quan hệ với từ" qua', "cánh', 'làng'.Đồng trong “cánh đồng”là khoảng đất rộng bằng phẳng trồng lúa hoạc hoa màu.

 Hiện tượng đồng âm cùng từ loại như trên học sinh rất dễ nhầm lẫn với từ nhiều nghĩa hầu hết các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại.Trong quá trình dạy học , tôi gặp phần lớn các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại .Từ 'đi' trong các trường hợp sau đều là động từ :

 

doc20 trang | Chia sẻ: rimokato | Lượt xem: 1686 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng sách giáo khoa.Tiếng việt 5 bao gồm cả từ đồng âm ngẫu nhiên (nghĩa là có 2 hay hơn 2 từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau, trùng nhau nhưng giữa chúng không có mối quan hệ nào, chúng vốn là những từ hoàn toàn khác nhau.)như trường hợp “câu” trong "câu cá", và “câu” trong "đoạn văn có 5 câu" là từ đồng âm ngẫu nhiên và cả từ đồng âm chuyển loại (nghĩa là các từ giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về nghĩa, đây là kết quả của hoạt động chuyển hoá từ loại của từ).
-VD: a) + cuốc (danh từ) ,đá( danh từ ) cái cuốc, hòn đá
 + cuốc(động từ) ,đá ( động từ ) cuốc đất, đá bóng 
 b) + thịt (danh từ) miếng thịt
 + thịt (động từ) thịt con gà
 Trong giao tiếp cần chú ý đầy đủ đến ngữ cảnh để tránh hiểu sai nghĩa của từ hoặc dùng từ với nghĩa nước đôi do hiện tượng đồng âm.
VD: Đem cá về kho
Câu trên có thê hiểu là hai cách
Cách 1: Đem cá về kho cất để dự trữ
Cách 2: Đem cá về để kho lên ăn
* Từ nhiều nghĩa: là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển .Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. ( SGK Tiếng việt 5- Trang 67 )
VD: Từ “mắt” trong câu “quả na mở mắt” là nghĩa chuyển.
 Đối với giáo viên có thể hiểu . Một từ có thể gọi tên nhiều sự vật hiện tượng , biểu thị nhiều khái niệm ( khái niệm về sự vật, hiện tượng) trong thực tế khách quan thì từ ấy được gọi là từ nhiều nghĩa. Các nghĩa trong từ nhiều nghĩa có mối liên hệ mật thiết với nhau.
 Muốn hiểu rõ hơn khái niệm về từ nhiều nghĩa ta có thể so sánh từ nhiều nghĩa với từ một nghĩa. Từ nào là tên gọi của một sự vật, hiện tượng biểu đạt một khái niệm thì từ ấy chỉ có một nghĩa.
VD: Từ “xe đạp” chỉ loại xe người đi có hai bánh hoặc ba bánh, dùng sức người đạp cho quay bánh
 Đó là nghĩa duy nhất thông dụng của từ “xe đạp” vậy, có thể nói, từ “xe đạp” là từ chỉ có một nghĩa.
Từ nào là tên gọi của nhiều sự vât, hiện tượng , biểu thị nhiều khái niệm thì từ ấy là từ nhiều nghĩa.
VD: Từ ăn có các nghĩa sau đây:
+ ăn cơm: tự cho vào cơ thể thức ăn để nuôi sống cơ thể
+ ăn cưới : ăn uống nhân dịp cưới
+ Tàu ăn hàng : tiếp nhận hàng để chuyên trở
+ ăn hoa hồng: nhận lấy để hưởng
+ ăn con xe: giành về mình phần hơn, phần thắng
+ Da ăn nắng: hấp thụ cho thấm vào, nhiễm vào.
+ Sơn ăn mặt : làm huỷ hoại dần dần từng phần.
+ ăn ảnh: vẻ đẹp được tôn lên (trong ảnh).
+ sông ăn ra biển: lan ra hoặc hướng đến nơi nào đó 
+ Đám đất này ăn về xã bên: Thuộc về 
+ Một đôla ăn mấy đồng tiền Việt Nam : Có thể đổi ngang giá.
Như vậy từ " ăn" là một từ nhiều nghĩa.
Trong chương trình môn tập đọc lớp 5 từ “trông” trong bài ca dao "đi cấy" là một từ nhiều nghĩa.
Chương trình phân môn luyện từ và câu không đề cập tới nghĩa đen và nghĩa bóng của từ nhiều nghĩa mà đề cập tới nghĩa chuyển và nghĩa gốc . Ng hĩa đen chính là nghĩa gốc của từ còn được gọi là nghĩa trực tiếp, là nghĩa đầu tiên của từ, là cơ sở để tạo ra các nghĩa khác. Trong từ điển, nghĩa đen dược nói tới đầu tiên. Nghĩa bóng cũng chính là nghĩa chuyển, là loại nghĩa được hình thành từ nghĩa đen (hoặc nghĩa chuyển này được hình thành từ nghĩa chuyển khác), có mối liên hên mật thiết với nghĩa đen. Nghĩa bóng (nghĩa chuyển ) là sản phẩm của hoạt động chuyển nghĩa của từ theo các phương thức như ẩn dụ , hoán dụ  Trong từ điển, nghĩa bóng được nói đến sau nghĩa đen.. Nghĩa bóng ( nghĩa chuyển) cũng mang tính cố định, ổn định , bền vững, tính xã hội và tính dân tộc như nghĩa đen.
b. Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
* Bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái niệm. Giáo viên tổ chức các hình thức dạy học để giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, giúp học sinh phát hiện các hiện tượng về từ ở các bài tập từ đó rút ra được những kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.Bước tiếp theo GV tổng hợp và chốt kiến thức như nội dung phần ghi nhớ . Đến đây , nếu là HS khá , giỏi ,GV có thể cho các em lấy ví dụ về hiện tượng đồng âm ,nhiều nghĩa giúp các em nắm sâu và chắc phần ghi nhớ. Chuyển sang phần luyện tập, giáo viên tiếp tục tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh giải quyết các bài tập phần luyện tập. Sau mỗi bài tập giáo viên lại cũng cố , khắc sâu kiến thức liên quan đến nội dung bài học, liên hệ thực tế và liên hệ tới các kiến thức đã học của phân môn LTVC nói riêng và tất cả các môn học nói chung.
 Tóm lại khi dạy khái niệm về từ đống âm và từ nhiều nghĩa, cần thực hiện theo quy trình các bước.
- Cho học sinh nhận biết ngữ liệu để phát hiện những dấu hiệu bản chất của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
- Học sinh rút ra các đặc điểm của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và nêu định nghĩa.
- Luyện tập để nắm khái niệm trong ngữ liệu mới .
Việc dạy hai bài học trên cũng tuân theo nguyên tắc chung khi dạy luyện từ và câu và vận dụng các phương pháp, hình thức dạy học như:
- Phương pháp hỏi đáp
- Phương pháp giảng giải
-Phương pháp trực quan
- Phương pháp luyện tập thực hành.
- Hình thức học cá nhân
- Thảo luận nhóm .
- Tổ chức trò chơi.
Ngoài ra giáo viên có thể vận dụng cách liên tưởng, liên hệ trong từng bài tập cụ thể.
VD: Bài tập 2 – Tiếng việt 5- trang 67: yêu cầu học sinh tìm một số ví dụ về sự chuyển nghĩa của các từ: lưỡi, miệng, cổ, tay, lưng.
 Giáo viên gợi ý bằng cách đưa ra một số câu hỏi gợi ý có nội dung liên tưởng như: lưỡi của những đồ vật gì có tính sắc, sáng ( học sinh dễ tìm được lưới dao, lưỡi kiếm, lưỡi gươm, lưỡi lê, lưỡi lam , lưỡi hái). Các từ còn lại giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, trình bày bằng trò chơi ai nhanh hơn.
* Đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên chủ yếu thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh cũng cố, nắm vững kiến thức, nhận diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa
2. Tìm các căn cứ để giúp học sinh nhận diện , phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
. Quay lại với bài kiểm tra ở phần thực trạng , tôi muốn đề cập đến một số lỗi HS mắc phải khi phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa . Đó là : 
+ Các em không xác định được nghĩa cuả từ trong từng câu.
+ Không tìm được mối quan hệ giữa từ mang nghĩa gốc với từ mang nghĩa chuyển.
+ Không dựa vào văn cảnh để hiểu nghĩa của từ trong mối quan hệ với các từ khác của câu.
+ Không thuộc định nghĩa ( tức phần ghi nhớ) của mỗi bài học.
Khi học sinh làm bài xong, tôi hỏi một học sinh có số điểm bài kiểm tra dưới 5 (em Kiên) về nghĩa của từ “vạt” trong câu :
“ Chú Tư lấy dao vật nhọn đầu chiếc gậy tre” nghĩa là gì?
Lúc đầu em im lặng, không trả lời, sau tôi động viên mãi, bảo em hiểu thế nào cứ nói cho cô nghe thì em trả lời “vạt” trong câu văn đó là một phần đầu nhọn của con dao.
Tôi không nói nhưng thầm nghĩ, em Kiên hiểu sai nghĩa của từ "vạt" và nội dung ý nghĩa thông báo của câu văn nên trong bài làm của mình em cho rằng từ “vạt” trong câu :
	“Những vạt nương màu mật
	Lúa chín ngập lòng thung”
và từ 'vạt' trong câu văn trên đều là những từ cùng nghĩa.
Tìm hiểu và nắm được một số sại lầm của học sinh như trên, tôi đã thử nghiệm một số biện pháp phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa như sau:
Yêu cầu học sinh thuộc ghi nhớ 
 Tâm lí học sinh thích làm những bài tập đơn giản, để lộ kiến thức, ngại học thuộc lòng, ngại viết các đoạn, bài cần yếu tố tư duy. Biết vậy, tôi thường cho học sinh ngắt ý của phần ghi nhớ cho đọc nối tiếp, rồi ghép lại cho đọc toàn phần, đọc theo nhóm đôi, có lúc thi đua xem ai nhanh nhất, ai đọc tốt. Cách làm này tôi đã cho các em thực hiện ở các tiết học trước đó (về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa) do đó dạy đến từ đồng âm, từ nhiều nghĩa các em cứ sẵn cách tổ chức như trước mà thực hiện. Và kết quả có tới 25/28 học sinh thuộc ghi nhớ một cách trôi chảy tại lớp chỉ còn ba em có thuộc song còn ấp úng, ngắc ngứ.
Giúp học sinh học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau
Điều đặc biệt của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là phát âm giống nhau,( nói đọc giống nhau viết cũng giống nhau). Ta thấy rõ ràng là “đường”(1) trong “đường rất ngọt”, "đường"(2) trong "đường dây điện thoại" và “đường”(3) trong “ngoài đường xe cộ đi lại nhộn nhịp” đều phát âm, viết giống nhau. Vậy mà “đường” (1) với “đường” (2) và “đường” (1 ) với "đưòng' (3) lại có quan hệ đồng âm , còn " đường" (2) với "đường" (3 ) lại có quan hệ nhiều nghĩa .
Để có được kết luận trên đây, trước hết học sinh phải hiểu rõ nghĩa của các từ đường (1), đường(2), đường (3) là gì?
Đường (1) : ( đường rất ngọt): chỉ một chất có vị ngọt.
Đường (2) :( đường dây điện thoại )chỉ dây dẫn,truyền điện thoại phục vụ cho việc thông tin liên lạc.
Đường (3) :( ngoài đường, xe cộ đi lại nhộn nhịp) chỉ lối đi cho các phương tiện, người, động vật.
Để có thể giải nghĩa chính xác các từ "đường" như trên, các em phải có vốn từ phong phú. có vốn sống. vì vậy trong dạy học tất cả các môn, giáo viên luôn chú trọng trau 
dồi, tích lũy vốn từ cho học sinh, nhắc học sinh có ý thức tích lũy cho mình vốn sống và yêu cầu mỗi học sinh phải có được một cuốn từ điển tiếng Việt,biết cách tra từ điển tiếng Việt đồng thời nắm được một số biện pháp giải nghĩa từ.
 Tiếp đó học sinh căn cứ vào định nghĩa, khái niệm về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để xác định mối quan hệ giữa các từ "đường".
Xét nghĩa của 3 từ "đường" trên ta thấy:
Từ (đường(1) và từ đường (2) có nghĩa hoàn toàn khác nhau không liên quan đến nhau- kết luận. hai từ đường này có quan hệ đồng âm. Tương tự như trên từ 'đường (2) và từ 'đường" (3) cũng có mối quan hệ đồng âm.
Từ đường (2) và từ đường (3) có mối quan hệ mật thiết về nghĩa trên cơ sở của từ đường (3)- chỉ lối đi, ta suy ra nghĩa của từ 'đường' (2) (truyền đi) theo vệt dài (dây dẫn). như vậy từ đường (3) là nghĩa gốc, còn từ đường (2) là nghĩa chuyển – kết luận: từ 'đường' (2) và từ 'đường' (3) có quan hệ nhiều nghĩa với nhau.
c)Dựa vào yếu tố từ loại cũng có thể giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
 Biện pháp này thực ra ít khi tôi vận dụng bởi nếu học sinh đã hiểu đúng nghĩa của từ. thuộc được khi nhớ thì không cần thiết phải dùng đến cách dựa vào yếu tố từ loại, tuy nhiên đối với một số học sinh trung bình và yếu giáo viên có thể kết hợp cả 3 
 biên pháp.
 Nếu trong thực tế đời sống hàng ngày học sinh có thể bắt gặp hiện tượng một từ nào đó phát âm gần nhau nhưng xét về từ loại khác nhau thì kết luận đó là hiện tượng đồng âm. chẳng hạn khi chơi đùa học sinh hò reo đồng thanh để cổ vũ cho một học sinh được mệnh danh là “ cụ cố” vì em này nhỏ , yếu :
 "Cố lên cụ cốơi!"
“Cố” thứ nhất là tính từ, “cố” thứ 2 là danh từ.	đây là hiện tượng đồng âm dễ nhận diện.
Tùy trường hợp những từ phát âm giống nhau nhưng cùng từ loại (cùng loaị danh từ, động từ, tính từ) thì phải vận dụng biện pháp giải nghĩa từ trong văn cảnh đồng thời xét xem các từ đó có mối quan hệ về nghĩa hay không để tránh nhầm lẫn giữa từ đồng âm với từ nhiều nghĩa hoặc quan hệ đồng nghĩa nếu có . Trong trường hợp này thông thường ta dựa vào ngữ cảnh để nhận biết nghĩa của từ đồng âm, nói cách khác là dựa vào các từ cùng đi với nó trong câu .Ngữ cảnh có tác dụng hiện thực hóa nghĩa của từ và giúp con người sử dụng ngôn ngữ tránh sự nhầm lẫn.
VD: - đồng tiền – cánh đồng
 - Vạc dầu - con vạc
- Con cò – cò súng
- Xe đạp – con xe(quân cờ).
 Xét câu văn sau:"Hôm nay tôi đánh rơi mười nghìn đồng ngay đoạn cánh đồng làng.
Các từ trong câu có mối quan hệ vơí từ 'đồng' thứ nhất gồm” đánh rơi”, “ mười nghìn”, nếu chỉ dừng lại ở đánh rơi 10 nghìn đồng thì người đọc chưa rõ mười nghìn đồng tiền Việt Nam hay tiền nước nào và chưa xác định rõ giá trị số tiền đánh rơi . Có từ "đồng ngay sau cụm từ 'đánh rơi mười nghìn đồng' thì ta hiểu rõ số tiền đánh rơi ở đây là tiền Việt và xác định được giá trị của nó.Vậy từ 'đồng" thứ nhất là đơn vị tiền Việt nam, từ "đồng" thứ 2 nằm trong mối quan hệ với từ" qua', "cánh', 'làng'.Đồng trong “cánh đồng”là khoảng đất rộng bằng phẳng trồng lúa hoạc hoa màu.
 Hiện tượng đồng âm cùng từ loại như trên học sinh rất dễ nhầm lẫn với từ nhiều nghĩa hầu hết các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại.Trong quá trình dạy học , tôi gặp phần lớn các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại .Từ 'đi' trong các trường hợp sau đều là động từ :
 đi bộ
 VD: đi:	đi chơi
	đi ngủ
 đi máy bay
 Vì vậy khi gặp những từ có cùng vỏ âm thanh giống nhau thì học sinh không được vội vàng phán quyết ngay hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa mà phải suy nghĩ thật kĩ. giải nghĩa chính xác các từ đó trong văn cảnh tìm ra điểm khác nhau hoàn toàn hay giữa chúng có sự liên hệ với nhau về nghĩa. Trong một số bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi,có một số trường hợp giống nhau về âm thanh nhưng khó phân biệt hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa.
VD: Các từ trong mỗi nhóm dưới đây có quan hệ như thế nào?
a) Đánh cờ, đánh giặc, đánh trống.
b) Trong veo, trong vắt, trong xanh,
c) Thi đậu , xôi đậu, chim đậu cành.
 (Đề thi HSG khối 5- trường TH Yên phú)
Xét về từ loại thì nhóm c các từ “đậu” có quan hệ đồng nghĩa với nhau vì đậu “trong thi đậu” là tính từ (đỗ,trúng tuyển) đậu” trong xôi đậu” là danh từ (gạo nếp trộn với đậu ngâm muối để ráo rồi đồ lên), 'đậu' (trong chim đậu trên cành) là động từ (nghĩ tạm dừng lại).
Ơ nhóm a, các từ 'đánh' đều là động từ nhưng xét về nghĩa các từ 'đánh cờ' (một trò chơi), 'đánh giặc' ( chiến đấu với kẻ thù bằng nhiều cách) và 'đánh trống' (dùng đùi hoăc tay đánh vào mặt trống cho phát ra âm thanh) thì nghĩa của chúng có liên qua đến nhau , đều tác động đến một sự vật khác , làm cho sự vật đó có sự thay đổi , vì vậy các từ “đánh” ở nhóm a có quan hệ nhiều nghĩa .
 Tuy nhiên các từ 'trong' ở nhóm b cũng là các từ có cùng từ loại ( tính từ ). Song chúng lại có quan hệ đồng nghĩa với nhau .
 Trong quá trình dạy bồi dưỡng học sinh giỏi để giúp học sinh làm tốt các bài tập như trên, giáo viên yêu cầu các em luôn nắm chắc nghĩa của từ và suy xét kĩ lưỡng nghĩa của các từ đó,không được bộp chộp ngộ nhận hoạc mới chỉ nhiều nghĩa mang máng 
mà đã vội kết luận mối quan hệ giữa các từ đã cho.
d)Dùng sơ đồ. 
 Đôi khi dạy xong tôi thầm nghĩ không biết cách làm của mình như thế này có “phi phương pháp” và trái với đặc trưng bộ môn hay không nhưng rõ ràng tôi thấy khi tôi dạy theo cách vẽ sơ đồ thì học sinh nhớ kiến thức về từ đồng âmvà từ nhiều nghĩa nhiều hơn, nhanh hơn đặc biệt là những học sinh trung bình và yếu.
 Thông thường khi dạy đến bài tập về từ đồng âm, tôi vừa hướng dẫn vừa giúp học sinh nhớ lại kiến thức bằng việc vẽ hai hình tròn ngang nhau nhưng rời nhau như
 sau:
 Khi ấy HS hiểu rằng mỗi hình tròn biểu thị cho nghĩa của một từ và các nghĩa ấy hoàn toàn khác nhau , không liên quan gì đến nhau , không có mối quan hệ gì . VD : 'Bức tranh' và 'tranh giành' .
 Còn khi hướng dẫn học sinh các bài tập về từ nhiều nghĩa tôi cũng vừa hướng dẫn vừa vẽ hai hình tròn nhưng hai hình tròn lại có chỗ giao thoa với nhau như sau:
 Khi ấy, học sinh học sinh hiểu rằng chỗ giao thoa giữa hai hình tròn là biểu thị mối quan hệ với nhau về nghĩa, phần không giao thoa giúp các em hiểu giữa các từ ấy có những điểm không hoàn toàn giống nhau về nghĩa.
VD: Mùa xuân(1) là tết trồng cây
 Làm cho đất nước càng ngày càng xuân(2).
"xuân' (1) chỉ mùa đầu tiên của một năm, từ tháng giêng đến tháng 3
"xuân' (2) chỉ tuổi trẻ, sức trẻ. Nghĩa của hai từ 'xuân' trên đây tuy có những điểm khác nhau nhưng chúng lại có mối quan hệ với nhau là cùng nói tới sự tươi trẻ đầy sức sống và đây chính là phần giao nhau trên sơ đồ.
 Tuy nhiên khi dùng từ đồng âm , từ nhiều nghĩa không phải bài tập nào giáo viên cũng đưa sơ đồ trên ra để dạy mà chỉ trong quá trình học sinh vận dụng làm bài tập gặp lúng túng về kiến thức,giáo viên mới đưa ra sơ đồ để các em nhanh chóng nhớ lại kiến thức về khái niệm đã học.
3.Tổ chức dạy trên lớp có sự lồng ghép, gơi mở kiến thức.
 Trong chương trình sách giáo khoa, bài dạy về từ nhiều nghĩa được sắp xếp sau bài dạy về từ đồng âm.Như vậy để phòng xa sự nhầm lẫn giữa từ đồng âm với từ nhiều nghĩa thì ngay ở bài dạy về từ đồng âm,ngoài ví dụ đúng về các trường hợp đồng âm giáo viên có thể đưa thêm một số ví dụ về các trường hợp không phải đồng âm để các em nhận xét.
 Ví dụ :Từ "đi' trong các trường hợp sau đây có phải hiện tượng đồng âm hay không?
Mẹ hay đi bộ vào buổi tối để giảm béo.
Bố mới đi Hà Nội về.
Hè này, cả nhà em đi du lịch
Cụ ốm nặng, đã đi hôm qua rồi.
Anh đi con mã, tôi đi con tốt.
Thằng bé đã đến tuổi đi học.
 Bài tập này giáo viên chỉ yêu cầu học sinh nhận diện từ 'đi' trong các câu văn trên là hiên tượng đồng âm hay không phải đồng âm,không yêu cầu các em giải thích gì và sẽ có hai phương án trả lời: đồng âm/ không đồng âm.Đến đây giáo viên gợi mở : để biết
 từ "đi" trong các câu văn trên có phải là quan hệ đồng âm hay không,các em về nhà suy nghĩ tìm hiểu SGK các tiết luyện từ và câu sau cô sẽ giúp các em tìm câu giải 
 đáp.
Để không mất nhiều thời gian tiết học cho nội dung trên, giáo viên viết sẵn nội dung câu hỏi gợi mở ra bảng phụ và tiến hành sau khi học sinh lấy ví dụ về từ đồng âm để khẳng định lại ghi nhớ. Lúc đó tự các em sẽ có một sự so sánh giữa các ví dụ về từ đồng âm với ví dụ trên đây, đồng thời, giáo viên kích thích được tư duy của học sinh. Trước khi kết thúc tiết học, giáo viên cũng không quên nhắc học sinh về nhà tiếp tục suy nghĩ trả lời giải thích về hiện tượng từ "đi" trong các câu văn đã cho.
 Trong dạy bài 'từ nhiều nghĩa' giáo viên cũng nên đưa thêm một ví dụ về từ đồng âm để học sinh phân biệt , rèn được kĩ năng nhận diện từ .
 Sau phần ghi nhớ của bài học “từ nhiều nghĩa” giáo viên có thể lấy thêm một hai trường hợp về từ nhiều nghĩa, sau đó quay lại lấy một ví dụ về từ đồng âm cho học sinh nhận định về các từ trong ví dụ.
VD: từ 'chỉ' trong các trường hợp sau là từ đồng âm hay nhiều nghĩa? Vì sao?
 Cái kim sợi chỉ – chiếu chỉ – chỉ đường – một chỉ vàng. ở câu hỏi này, giáo viên yêu cầu học sinh giải thích lí do lựa chọn để khẳng định kiến thức và khả năng nhận diện,
 phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Sau khi học sinh trả lời giáo viên chốt lại từ “chỉ” trong các trường hợp trên có quan hệ đồng âm vì nghĩa của từ "chỉ' trong mỗi trường hợp khác nhau, không có quan hệ với nhau.
 Nội dung trên, giáo viên cũng tiến hành như trong khoảng 2-3 phút, dành thời gian cho các em làm bài tập phần luyện tập. Cuối tiết học giáo viên nhấn mạnh : các em cần lưu ý phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, tránh nhầm lẫn đáng tiếc giữa hai hiện tượng này.
4. Tập hợp nghiên cứu các bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa
Dạng 1: Phân biệt nghĩa của các từ
*.Đối với từ đồng âm: phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau: Cánh đồng(1) – tượng đồng(2) – một nghìn đồng(3).
 BT này , GV giúp HS hiểu nghĩa của các từ "đồng" ở mỗi trường hợp :' đồng' (1) chỉ khoảng đất rộng , bằng phẳng , dùng để cấy , trồng trọt . "Đồng " (2) là kim loại có màu đỏ , dễ dát mỏng và kéo thành sợi . "Đồng" (3) là đơn vị tiền Việt Nam . Như vậy 
 nghiã của các từ "đồng" khác nhau , chúng là những từ đồng âm .
*.Đối với từ nhiều nghĩa:
Trong những câu sau câu nào có từ “chân” mang nghĩa gốc và câu nào có từ 'chân' mang nghĩa chuyển?
Chân: a) Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
 b) Bé đau chân.
Đối với bài tập trên giáo viên yêu cầu học sinh nêu được nghĩa của từ “chân” trong mỗi câu và xác định nghĩa chuyển, nghĩa gốc('chân' trong câu a chỉ một bộ phận làm trụ đỡ của cái kiềng – nghĩa chuyển, 'chân' trong câu b một bộ phận của cơ thể đỡ và di chuyển cơ thể – nghĩa gốc).
 Dạng 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm hoặc nhiều nghĩa.
*.Đối với từ đồng âm.
Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm : bàn, cờ, nước.
O bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh với mỗi từ các em cần đặt ít nhất là hai câu, các từ đó có quan hệ đồng âm với nhau.
VD: Bàn :- Cả nhà ngồi vào bàn để ăn cơm.
 - Bố mẹ em cũng đang bàn chuyện cưới vợ cho anh trai.
 *Đối với từ nhiều nghĩa.
Đặt câu để phân biệt nghĩa của từ “ đứng”
Đứng : Nghĩa 1: ở tư thế chân thẳng, chân đặt trên mặt nền.
 Nghĩa 2: Ngừng chuyển động.
Giáo viên có thể gợi ý nghĩa 1 nói tới một tư thế của người hoặc động vật. Nghĩa 2 nói tới trạng thái của một đồ vật hiện tượng, dựa vào gợi ý đó học sinh có thể đặt câu.
Nghĩa 1: Chúng em đang đứng nghiêm 

File đính kèm:

  • docSKKN TIENG VIET LOP 5.doc
Giáo án liên quan