Đề tài Dạy kiến thức hình tam giác, hình thang cho học sinh yếu lớp 5
Sau khi học sinh đã quan sát trong sách giáo khoa về đặc điểm của loại hình này, GV có thể gợi mở bằng 1 số câu hỏi sau:
- Ba góc của tam giác lớn hơn hay nhỏ hơn góc vuông?
- AH là đường cao tương ứng với đáy BC như hình vẽ trên bảng. Nếu lấy đáy là AC ta sẽ có đường cao nào? Tương tự nếu lấy đáy là AB thì đường cao sẽ hạ từ đâu?
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hình học là nội dung cơ bản, chủ yếu của chương trình môn Toán ở Tiểu học. Nó được rải đều tất cả các khối lớp và được nâng cao dần về mức độ. Từ nhận diện hình ở lớp 1, 2 sang đến tính chu vi, diện tích ở các lớp 3, 4, 5. Nói chung, hình học là môn học tương đối khó trong chương trình môn Toán vì nó đòi hỏi người học khả năng tư duy trừu tượng, những em có học lực khá và giỏi sẽ rất thích học môn này, ngược lại những em có khả năng tư duy chậm hơn thì rất ngại học dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém môn Toán chiếm tỉ lệ khá cao so với các môn học khác. Trước thực trạng đó, nhiệm vụ đặt ra cho ngành giáo dục, cho mỗi giáo viên đứng lớp là làm thế nào nâng cao chất lượng học sinh, tránh để học sinh ngồi nhầm lớp nhất là trong giai đoạn hiện nay cả ngành giáo dục đang ra sức thực hiện "Hai không" với bốn nội dung của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc tìm hiểu về mức đội kiến thức hình học ở Tiểu học và biết được người ta đưa vào những nội dung nhằm mục đích gì từ đó mà đề ra phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh thì hiệu quả giảng dạy sẽ cao hơn. Trong chương trình Toán 5 việc dạy nội dung hình học cho học sinh không khó, bên cạnh những thành công là giúp học sinh nắm được cách nhận diện hình, tìm diện tích, chu vi, thể tích thì cũng còn những hạn chế là các em chưa nắm rõ bản chất của đơn vị kiến thức, kết quả là chưa đáp ứng được yêu cầu của thực hành. Làm thế nào để các em có thể sử dụng kiến thức cơ bản một cách linh hoạt ở từng trường hợp cụ thể. Đó cũng là trăn trở của bản thân khi dạy cho học sinh kiến thức về nội dung hình học. Đặt cho mình nhiệm vụ tháo gỡ những khó khăn trên, bản thân đã nhiều năm được phân công dạy lớp 5, năm học này lại được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 5A, là lớp có tới 38.5% học sinh yếu môn Toán (theo kết quả khảo sát đầu năm), trong quá trình giảng dạy tôi rút ra một vài kinh nghiệm trong việc giúp học sinh yếu kém học các bài có nội dung hình học. Vì vậy tôi chọn SKKN: “Dạy kiến thức hình tam giác, hình thang cho học sinh yếu Lớp 5”. II. ĐIỀU TRA KHẢO SÁT 1. Về học sinh Đặc điểm của học sinh Tiểu học là hiểu và ghi nhớ máy móc nên trước 1 bài bất kỳ các em thường đặt bút tính luôn nhiều khi dẫn đến những sai sót không đáng có do các em chưa chú ý đến các số đo của đáy, đường cao, hoặc mối liên hệ giữa các yếu tố trong công thức tính. Trí nhớ của học sinh chưa bền vững chỉ dừng lại ở phát triển tư duy cụ thể còn tư duy trừu tượng, khái quát kém phát triển (nhất là ở học sinh yếu kém) nên khi gặp những bài cần có sự tư duy logic như tính chiều cao hay độ dài đáy thì các em không làm được do không có công thức tính. So với mặt bằng toàn huyện thì chất lượng học sinh trường Tiểu học Gio Sơn chưa cao so với một số trường khác, số học sinh cả khối ít nên dù có chia lớp theo trình độ học sinh vẫn chưa triệt để gây ra những khó khăn nhất định khi bồi dưỡng học sinh yếu. Đặc điểm của trẻ ở Tiểu học là chóng nhớ nhưng nhanh quên. Sau khi học bài mới, cho các em luyện tập ngay thì các em làm được bài nhưng chỉ sau một thời gian ngắn kiểm tra lại thì hầu như các em đã quên hoàn toàn, đặc biệt là những tiết ôn tập, luyện tập cuối năm. Khả năng xác định, vẽ đường cao (đặc biệt là trường hợp đường cao nằm ngoài tam giác) của HS còn yếu. 2. Về giáo viên Quyết định chất lượng dạy học phụ thuộc nhiều vào giáo viên. Do cấu trúc các bài này trong sách giáo khoa ở những tiết học đầu mới chỉ là giới thiệu và hình thành công thức để học sinh nắm được và giải toán nên trong quá trình lên lớp giáo viên cũng chỉ có thể giúp học sinh giải quyết những bài tập trong sách chứ chưa có sự đào sâu, mở rộng. Đối với đối tượng học sinh yếu kém thì lại càng khó khăn hơn trong việc vận dụng công thức để xác định những yếu tố trong công thức đó. Ví dụ : Hình tam giác: Hình thành và vận dụng công thức để tính diện tích chứ chưa yêu cầu tính độ dài đáy hay đường cao. 3. Kết quả khảo sát chất lượng của 24 học sinh lớp 5A vào đầu tháng 01 năm 2009 theo 3 tiêu chí sau: Nhận biết hình và kĩ năng vẽ hình Nắm kiến thức cơ bản về hình học Vận dụng kiến thức làm bài tập Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt 17 em 7 em 14 em 10em 13em 11 em 70,8% 29,2% 58,3% 41,7% 54,2% 45,8% III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN Phân tích nội dung, phương pháp dạy 2 loại hình Hình tam giác + Bài giới thiệu về hình tam giác (Tiết 85) Cho học sinh quan sát hình và chỉ ra 3 cạnh, 3 góc, 3 đỉnh sau đó giới thiệu cho học sinh 3 loại hình tam giác, từ đây học sinh nhận diện hình để xác định đâu là tam giác có 3 góc nhọn, đâu là tam giác có 1 góc tù và 2 góc nhọn, đâu là tam giác vuông có 1 góc vuông, 2 góc nhọn ( ở bài tập 1 trang 86.) Cho học sinh nhận biết đáy và đường cao tương ứng bằng cách quan sát và dưới sự hướng dẫn của giáo viên học sinh đọc tên được các đường cao ứng với đáy (ở bài tập 2 trang 86.) + Bài diện tích hình tam giác (tiết 86) Dạy bài này bằng cách cắt ghép 2 tam giác bằng nhau, giáo viên thao tác trên đồ dùng cho học sinh quan sát và cho học sinh làm theo, sau đó mới hình thành công thức và nhận xét : Hình chữ nhật ABCD có chiều dài A E B C D H ,bằng độ dài đáy DC của tam giác EDC có chiều rộng bằng chiều cao EH của tam giác EDC. Diện tích hình chữ nhật gấp 2 lần diện tích hình tam giác Diện tích hình chữ nhật ABCD là CD x AD = DC x EH Vậy diện tích tam giác EDC là Từ đây mà phát biểu quy tắc và hình thành công thức : Trong đó S Là diện tích, a là độ dài đáy, h là chiều cao. Từ đây, các em sẽ vận dụng công thức để làm bài tập tính diện tích tam giác biết độ dài đáy a và chiều cao h ở tiết 86,87,88. Hình thang + Bài giới thiệu về hình thang (tiết 90) Cho học sinh quan sát và chỉ ra hình thang ABCD có : Cạnh đáy AB, CD ; 2 cạnh bên AD, BC. Hai cạnh đáy song song Giới thiệu đường cao AH và độ dài AH là chiều cao. Học sinh vận dụng khái niệm: Hình thang có 1 cặp cạnh đối diện song song để nhận diện hình ở bài 1 (trang 91) vẽ hình thang ở bài 2 (trang 92) và nắm khái niệm hình thang vuông ở bài 3. + Bài diện tích hình thang (tiết 91) Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát và thao tác trên đồ dùng để thấy cắt ghép hình thang trở thành hình tam giác. Vì vậy diện tích hình thang ABCD bằng diện tích tam giác ADK. Từ đó mà xây dựng công thức và phát biểu quy tắc : Trong đó: S là diện tích a,b là độ dài các cạnh đáy h là chiều cao Cuối cùng học sinh vận dụng công thức để tính diện tích hình khi biết độ dài hai đáy và chiều cao ở tiết 91+92+93. Giải pháp 2.1. Hình tam giác Ở lớp 5, hình tam giác được dạy từ tiết 85 đến tiết 88, trong đó có 1 tiết về nhận dạng và các đặc điểm của hình, các tiết còn lại dành cho việc hình thành và vận dụng công thức tính diện tích. Tiết 85: Sách giáo khoa giới thiệu về hình tam giác với 3 góc, 3 đỉnh, 3 cạnh, cách xác định đương cao tương ứng với cạnh đáy và nhận diện các loại hình tam giác. Bài này giáo viên cần giúp học sinh : Nhận biết hình và đặc điểm của hình Phân biệt 3 dạng hình Nhận biết đáy và xác định đường cao tương ứng. Việc tiến hành dạy bài này như đã trình bày ở phần trước: Từ phân tích nội dung, khi các em đã nắm được trọng tâm bài, giáo viên giúp học sinh xác định rõ đường cao xuất phát từ 1 đỉnh luôn vuông góc với đáy tương ứng. Khi giúp học sinh phân biệt 3 dạng hình giáo viên cần tiến hành thêm 1 số công việc như sau: Với tam giác có 3 góc nhọn Sau khi học sinh đã quan sát trong sách giáo khoa về đặc điểm của loại hình này, GV có thể gợi mở bằng 1 số câu hỏi sau: - Ba góc của tam giác lớn hơn hay nhỏ hơn góc vuông? - AH là đường cao tương ứng với đáy BC như hình vẽ trên bảng. Nếu lấy đáy là AC ta sẽ có đường cao nào? Tương tự nếu lấy đáy là AB thì đường cao sẽ hạ từ đâu? Học sinh sẽ suy nghĩ để tìm cách vẽ trong vở hoặc trên bảng lớp với các loại hình đều có đáy BC ,AC, AB như hình vẽ dưới đây: A H C B A H C B A H C B Tiếp theo, giáo viên đưa ra 1 số hình tam giác với các vị trí đáy khác nhau, yêu cầu học sinh vận dụng những điều vừa học xác định đường cao lần lượt với các đáy AB, AC, BC. Sau khi đã vẽ xong, giáo viên cùng học sinh thống nhất các đường cao tương ứng với các đáy như các hình dưới đây: A H C B A H C B A H C B Cuối cùng giáo viên hỏi: Ba đường cao của tam giác có 3 góc nhọn nằm trong hay ngoài tam giác? Tam giác có 1 góc tù và 2 góc nhọn Với đối tượng học sinh yếu kém thì việc xác định đường cao trong loại tam giác này thực sự khó khăn, các em sẽ không kẻ được nếu không có sự giúp đỡ của giáo viên. Sách giáo khoa đã giới thiệu đường cao AH tương ứng với đáy BC nhưng giáo viên cần lưu ý học sinh để kẻ được đường cao trước hết ta phải kéo dài A C H B đáy sang hai bên, sau đó kẻ đường cao AH từ đỉnh A vuông góc xuống BC. Tương tự phần trên, giáo viên cũng đưa ra các tam giác với các vị trí đáy khác nhau và yêu cầu học sinh thực hành kẻ đường cao tương ứng với các đáy. Nhưng giáo viên vẫn phải lưu ý học sinh thực hiện theo 2 bước: - Kéo dài đáy sang 2 bên. - Kẻ đường cao từ đỉnh vuông góc xuống đáy. Sau khi các em thực hiện xong, đáp án đúng sẽ là: A C H B A C H B A C H B Đáy BC, đường cao AH Đáy AB, đường cao CH Đáy AC, đường cao BH Cuối cùng, giáo viên hỏi: Em có nhận xét gì về 3 đường cao trong tam giác có 1 góc tù, 2 góc nhọn? (Có 2 đường cao ngoài và 1 đường cao trong tam giác). Việc sử dụng đường cao ngoài của tam giác rất khó cho học sinh yếu kém tuy nhiên ta vẫn phải cho các em làm quen để học sinh nắm được bản chất từ đó các em có điều kiện học tốt hơn ở các bài học khác. Ví dụ, ở bài học 2, tiết 93 phần ôn tập - luyện tập: Để tính được diện tích hình tam giác BEC học sinh buộc phải dùng đường cao ngoài tam giác ngoài tam giác từ đỉnh B xuống đáy EC, đó chính là đường cao hình thang ABCD (trang 95). Điều này sẽ thật sự có ích không những ở học sinh yếu kém mà nó đặc biệt quan trọng cho học sinh khá giỏi vì đây là tiền đề, là cơ sở cho các em học tốt hơn môn hình học ở lớp trên. Hiện nay ở các đề thi học sinh giỏi bậc tiểu học không bao giờ vắng bóng bài toán có nội dung hình học cần sử dụng đường cao ngoài tam giác. Tam giác có 1 góc vuông và 2 góc nhọn: Trong sách giáo khoa chỉ giới thiệu AB là đường cao ứng với đáy BC còn ở bài tập 2 chỉ yêu cầu học sinh xác định đường cao trong tam giác thì giáo viên cho học sinh quan sát và khẳng định thêm: - Nếu xem BC là đáy thì AB là đường cao - Nếu xem AB là đáy thì BC là đường cao Sau khi học sinh nhận biết được đáy, chiều cao của loại tam giác này, giáo viên lại cho học sinh xác định với các tam giác có vị trí đáy khác nhau. Đáp án cuối cùng là: A B C Đáy BC, đường cao AB A B C Đáy AB, đường cao BC A B K Đáy AC, đường cao BKBBK C Nhận xét về các đường trong tam giác vuông: 2 cạnh vuông góc với nhau chính là 2 đường cao tương ứng với đáy và 1 đường cao nữa nằm trong tam giác Kết luận: Trong 1 tam giác ta có thể kẻ 3 đường cao tương ứng với 3 đáy của nó. Tuỳ vào hình dạng, đặc điểm của tam giác và đáy của nó mà đường cao tam giác có thể nằm trong hay nằm ngoài hay chính là cạnh của tam giác. Tiết 86: Diện tích tam giác Sách giáo khoa đã hình thành quy tắc, công thức tính rõ ràng: Trong đó: S: Diện tích a: Độ dài đáy h: Chiều cao Sau khi có công thức, học sinh lắp số liệu các em sẽ làm được bài tập 1, 2 (tiết 86) bài 1, 2, 3, 4 (tiết 87) và bài 3 (tiết 88). Tiếp theo, giáo viên phải làm rõ cho học sinh 2 nội dung sau: + Cũng như việc tính diện tích hình chữ nhật, hình thoi, hình bình hành, để tính được diện tích tam giác thì các số đo: chiều cao, độ dài đáy phải cùng 1 đơn vị đo, nếu vậy các em sẽ làm đúng bài 2a (tiết 86) và bài 1b (tiết 87) + Cho học sinh nhận xét thêm về công thức Ta xem: (a x h) là số bị chia 2 là số chia S là số chia Thì a x h = 2 x S a x h là thừa số 2 x S là tích. Nếu a là thành phần chưa biết thì a = 2 x S : h. (1) Nếu h là thành phần chưa biết thì h = 2 x S :a (2) Đến đây học sinh có thể dùng 2 công thức (1) và (2) để làm bài tập dạng: a) Tam giác có diện tích là 39.44 cm2, chiều cao là 5.8 cm. Tính độ dài cạnh đáy? b) Tam giác có diện tích là m2, độ dài đáy là m. Tính chiều cao? Và học sinh thực hành tốt bài tập 1 tiết 103 (trang 106): Tam giác có diện tích 5/8 m2, chiều cao 1/2 m. Tính độ dài đáy của tam giác đó. Từ công thức tổng quát trên, học sinh dễ dàng giải bài toán này. Giải Độ dài của tam giác là: Đáp số: m Tóm lại: Đối với hình tam giác giáo viên cần giúp học sinh làm rõ các nội dung ngoài sách giáo khoa: - Xác định đường cao ngoài - Các yếu tố độ dài đáy, chiều cao phải cùng đơn vị đo. -Tìm hiểu công thức tính độ dài đáy, chiều cao - Hai tam giác bất kỳ nếu có chung đáy (đáy bằng nhau), chiều cao bằng nhau (chung chiều cao) thì hai tam giác đó có diện tích bằng nhau. 2.2 Hình thang Tiết 90: Giới thiệu về hình thang Tiết này giáo viên cần giúp học sinh hình thành biểu tượng về hình thang, nhận biết 1 số đặc điểm phân biệt được hình thang với một số hình đã học và rèn kỹ năng vẽ hình cho học sinh. Ngoài ra, giáo viên cần củng cố thêm: Ở bất cứ 1 điểm nào trên đáy bé ta kẻ đường vuông góc xuống đáy lớn thì ta được đường cao của hình thang. Tiết 91 : Diện tích hình thang. Dạy bài này, GV cần giúp các em hình thành công thức tính, nhớ và biết vận dụng công thức để giải toán. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy cho học sinh yếu kém, giáo viên luôn nhắc nhở các em : + Độ dài 2 đáy, chiều cao của hình phải cùng đơn vị đo. + Hình thành công thức tính chiều cao, tổng hai đáy của hình thang (cách làm như với hình tam giác). Nếu S là diện tích, h là chiều cao, a, b là độ dài hai đáy Thì: chiều cao hình thang là: h = (S x 2): (a+b) Tổng độ dài 2 đáy là: a+b = (S x 2) : h IV. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM Mục đích: Kiểm chứng tính hiệu quả của sáng kiến. Đối tượng: Học sinh lớp 5A. Thời gian: Sau khi học xong tiết 93 (tuần 19) Kết quả như sau: Nhận biết hình và kĩ năng vẽ hình Nắm kiến thức cơ bản về hình học Vận dụng kiến thức làm bài tập Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt 23 em 1em 21 em 3em 22em 2 em 95,8% 4,2% 87,5% 12,5% 91,7% 8,3% Nhìn vào bảng thống kê ta thấy: Cũng với 1 đề với mức độ kiến thức như nhau ở cùng số học sinh trong một lớp, chất lượng học sinh đã được nâng cao dần, học sinh đã khắc phục được những thiếu sót của mình ở bài 1b và 2b. Với cách khai thác bài tổng quát và mở rộng, ta thấy các em đã nắm được bài, biết vận dụng công thức để giải toán một cách linh hoạt, đây là tiền đề giúp các em hoàn thiện hơn về mặt kiến thức để học tập tiếp những bài sắp tới. V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Qua công tác phụ đạo học sinh yếu kém, tôi nhận ra rằng: Để hoàn thành nhiệm vụ này có hiệu quả cần làm tốt 1 số vấn đề sau: - Kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh thật chính xác ngay từ đầu năm học và có kế hoạch bồi dưỡng các em ngay từ những tuần đầu của năm học. - Kiên trì chịu khó không nôn nóng trước sự phát triển chậm chạp của các em, phải biết ghi nhận từng tiến bộ của các em dù là nhỏ nhất. Đó là điều kiện cần thiết của người giáo viên được giao nhiệm vụ dạy số học sinh này. - Phải nghiên cứu, tìm hiểu nội dung môn học, bài học để đề ra phương pháp giảng dạy cho đối tượng học sinh này: Khi dạy cần kết hợp khắc sâu, mở rộng và chỉ rõ từng bước để các em hiểu, làm theo và dần dần trở thành kỹ năng. - Tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi để đề ra nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học Toán, đặc biệt là hình học ở trường tiểu học cho học sinh yếu kém là vô cùng cần thiết và phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Trẻ em là tương lai của đất nước, là hạnh phúc của mỗi gia đình, chúng ta hãy trang bị cho các em một hệ thống tri thức cơ bản, vững chắc để các em tự tin bước vào thời đại mới: Thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ trong việc bồi dưỡng, phụ đạo môn Toán cho học sinh yếu kém lớp 5, phần có nội dung hình học của cá nhân tôi. Trong quá trình nghiên cứu, trình bày không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong Ban giám khảo và các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến để ngày càng có nhiều tiết dạy tốt, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Tôi xin chân thành cảm ơn! Gio Sơn, ngày 14 tháng 3 năm 2009 Người thực hiện Võ Thị Kim Yến
File đính kèm:
- sang kien hay.doc