Đề cương ôn tập văn học thiếu nhi mùa yêu

Phạm Hổ cũng rất coi trọng vai trò của nhạc điệu để giúp các bé dễ nhớ.

Để làm nên điều đó,Phạm Hổ thường hay sử dụng thể thơ hai, ba, bốn hoặc năm chữ. Nhịp thường ngắn, có giá trị miêu tả hiện thực, để các bé có thể vận dụng trí tưởng tượng phong phú của mình,Chẳng hạn, nhịp 2/2 ở bài Sen nở gợi tả những cánh sen đang từ từ hé mở : “Từ từ / Khẽ mở / Trăm nghìn / Cửa lụa / Xinh tươi / Sáng hồng ”.

 

docx12 trang | Chia sẻ: rimokato | Lượt xem: 10402 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề cương ôn tập văn học thiếu nhi mùa yêu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 (Phạm Hổ) “Mặt trời rúc bụi tre/ Buổi chiều về nghe mát/ Bò ra sông uống nước/ Thấy bóng mình ngỡ ai/ Bò chào: “Kìa anh bạn/ Lại gặp anh ở đây”/ Nước đang nằm nhìn mây/ Nghe bò cười toét miệng…”
Hài hước, dí dỏm…
Vd: Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy đặc trưng ấy trong bài thơ “Ngủ rồi” (Phạm Hổ):“Gà mẹ hỏi gà con/ Đã ngủ chưa đấy hả?/ Cả đàn gà nhao nhao/ Ngủ cả rồi đấy ạ!”…
Giàu chất trữ tình, bay bổng, hấp dẫn
Trẻ em được tiếp xúc với văn học thiếu nhi chủ yếu là qua lời đọc, lời kể của ông bà, cha mẹ, thầy cô,…), cho nên VHTN viết cho các em phải đặc biệt quan tâm đến đặc điểm tâm lí lứa tuổi và những sở thích của trẻ nhỏ. 
Người lớn muốn viết cho trẻ em phải thực sự hòa nhập với cuộc sống trẻ thơ, sống hết mình với tuổi thơ mới có thể tạo ra được sự cộng hưởng và mang lại cho tác phẩm sự thành công. 
Ví dụ: Bài thơ “Chú thỏ đa nghi” (Phạm Hổ) : “Thỏ đây! Ai đấy? Mèo à? Mèo thế nào? Mình không trông thấy cậu/ Nhỡ đứa khác thì sao?”… không chỉ thể hiện sự hồn nhiên ngây thơ mà còn đa nghi, ngốc nghếch của chú thỏ. Thỏ dùng máy nói mà cứ đòi phải nhìn thấy người ở đầu dây bên kia chú mới tin đó chính là bạn mình.
Do trí tưởng tượng của trẻ rất độc đáo 
Vd: đi học gặp trời mưa=>bé có thể nói là ướt do bị ông trời dội nước 
Suy nghĩ của trẻ giống như suy nghĩ của người cổ đại, dùng tưởng tượng để giải quyết những thắc mắc của mình , vì thế những gì bay bổng sẽ hấp dẫn trẻ
Ngoài ra trẻ có tư duy khám phá, thích những gì độc đáo
Vd: masupilami co chiếc đuôi dài đa năng , mèo máy doraemon có chiếc túi thần kỳ …
Trẻ giàu tình cảm nên trong VHTN cũng cần giàu chất trữ tình : tình bạn, cha mẹ , thầy trò , nhân đạo
Sở dĩ các tác phẩm truyện viết cho trẻ em lôi cuốn, hấp dẫn, có sức cảm hóa lạ lùng, mạnh mẽ được các em còn vì VHTN luôn lấp lánh chất thơ, chất truyện. điều này giúp trẻ em sau khi được nghe ông bà, cha mẹ kể chuyện, gấp sách lại vẫn thấy bao nhiêu điều kì diệu, “bám chặt” lấy tâm hồn, tình cảm và chắp cánh cho những ước mơ, khát vọng của tuổi thơ (truyện “Dế mèn phiêu lưu kí” của Tô Hoài là một ví dụ cụ thể).
Bên cạnh đó , đặc điểm này cũng là một trong những yếu tố khiến cho các em dễ hiểu, dễ cảm nhận tác phẩm .
Giàu hình ảnh, vần điệu, nhạc điệu. Những hình ảnh đẹp, rực rỡ cùng với vần điệu, nhạc điệu vui tươi sẽ làm cho tác phẩm thêm sinh động và có sức lôi cuốn, hấp dẫn các em. Đây là một trong những yếu tố không thể thiếu trong thơ viết cho các em.
Phải có chức năng giáo dục và mỹ cảm 
Tính giáo dục được coi là một trong những đặc trưng cơ bản nhất của Văn học thiếu nhi .Văn học thiếu nhi có vai trò vô cùng to lớn tỏng việc giáo dục toàn diện nhân cách trẻ em , cả về đạo đức , trí tuệ và thẩm mỹ
Một tác phẩm viết về con người hay đồ vật chỉ được coi là một tác phẩm VHTN khi tác giả biết “trẻ con hóa” những con vật, đồ vật ấy để nói lên những suy nghĩ của chính các em; cảm thông, chia sẻ, cảm hóa các em bằng những bài học nhân ái, nhẹ nhàng mà sâu sắc: 
Vd: “Ngỗng không chịu học/ Khoe biết chữ rồi/ Vịt đưa sách ngược/ Ngỗng cứ tưởng xuôi/ Cứ giả đọc nhẩm/ Làm vịt phì cười/ Vịt khuyên một hồi/ Ngỗng ơi! Học! Học!”…(Ngỗng và Vịt - Phạm Hổ).
Các em vốn rất yêu cái cái đẹp, cái tốt, cái thực; vì vậy các nhà văn cần nắm được những đặc điểm tâm lí của trẻ để thỏa mãn những nhu cầu ấy một cách tự nhiên. Những hình tượng nghệ thuật, giàu giá trị nhân văn kết hợp vần điệu do các nhà văn dày công sáng tạo trong tác phẩm sẽ gây được những ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn trẻ thơ, tác động nhẹ nhàng đến nhận thức, tư tưởng tình cảm ở trẻ.
Vd: truyện cổ tích Tấm Cám cho trẻ phân biệt rõ ràng xấu , tốt , giúp trẻ biết yêu cái thiện , căm ghét tránh xa cái ác, tàn độc
Có vai trò quan trọng trong việc giáo dục toàn diện nhân cách trẻ em cả về đạo đức, trí tuệ và tình cảm thẩm mĩ.
Trẻ con nhận thức về thế giới xung quanh ở mức cảm tính…, nên việc tiếp xúc với cái đẹp của ngôn từ và trí tưởng tượng phong phú trong tác phẩm VHTN sẽ là cơ sở để các em rung động và cảm nhận được vẻ đẹp về một thế giới bao la đầy âm thanh, màu sắc và sự huyền bí. 
Vd: Trong truyện cổ tích, trẻ được gặp ông Bụt, bà Tiên tốt bụng với những phép biến hóa thần thông, những nàng công chúa xinh đẹp, những chàng hoàng tử thông minh, can đảm… Còn trong truyện thần thoại, các em lại được bắt gặp lối nhân hóa và sự tưởng tượng nghệ thuật, ở đó các con vật, cỏ cây, hoa lá hiện lên một cách sinh động thể hiện tình cảm gắn bó sâu sắc giữa con người với thiên nhiên. 
Trẻ thơ vốn đã sẵn trong đầu trí tưởng tượng phong phú nên khi gặp những yếu tố kì ảo, đẹp đẽ trong các tác phẩm văn học thì trí tưởng tượng ở trẻ càng được thăng hoa, giúp các em phát triển trí tuệ và thưởng thức cái đẹp, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế hơn…
=>hướng các em tới chân - thiện – mĩ. 
VHTN có vai trò quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, cung cấp cho trẻ thơ một vốn từ ngữ khổng lồ, đặc biệt là những từ ngữ nghệ thuật. 
Để nhớ hay có thể dùng một từ nào đó để thể hiện suy nghĩ tình cảm của mình , trẻ cần phải được tiếp xúc với từ đó rất nhiều lần nhưng việc bắt trẻ nghe người khác lặp đi lặp lại một từ nhiều lần để nhớ là điều khó khăn và nhàm chán đối với trẻ.Khi trẻ thường xuyên tiếp xúc với các tác phẩm VHTN, vốn từ ngữ của các em phong phú và sống động hơn. Các em tự hình thành cho mình khả năng diễn đạt một vấn đề một cách mạch lạc, giàu hình ảnh và biểu cảm bởi đã được học cách diễn đạt sinh động ấy trong các tác phẩm.
CÂU 6: SỰ KHÁC NHAU CƠ BẢN GIỮA THƠ VÕ QUẢNG VÀ THƠ PHẠM HỔ
Võ Quảng và Phạm Hổ là nhà thơ tiêu biểu của văn học nói chung và văn học thiếu nhi nói riêng .có chung niềm đam mê sáng tác văn học và dành nhiều tình cảm cho thiếu nhi , tuy nhiên giữa họ vẫn có những sự khác biệt đánh dấu dâu ấn tác giả
Tiêu chí 
VÕ QUẢNG
PHẠM HỔ
NỘI DUNG
1.Những nội dung phổ biến:
+ Những cảnh vật thiên nhiên
+ Thế giới loài vật và cây cỏ 
*những cảnh vật thiên nhiên 
- Võ Quảng có những bức tranh thiên nhiên lộng lẫy 
Vd: bức tranh Mùa xuân 
qua bài: Ai cho em biết	
 “Hoa cải li ti 
“Đốm vàng óng ánh 
 Hoa cà tim tím ….
*Thế giới loài vật và cây cỏ 
Vườn thơ Võ Quảng khá giàu về các loại chim thú và cây cỏ 
trong thơ ông một xã hội chim ,thú rất đông vui và sinh động, gần gũi với người là gà ,vịt ,trâu ,bò,lợn …tiêu biểu là bài Anh đom đóm
Mặt trời gác núi
Bóng tối lan dần
Anh đóm chuyên cần
Lên đèn đi gác….
Khác Phạm Hổ ,điều quan tâm của Võ Quảng là sự kỳ diệu của đất trời mà nếu “ai dậy sớm”(tên một bài thơ của ông) mới được tận hưởng vẻ đẹp kỳ thú đó. 
Ông cũng nói nhiều đến vẻ đẹp của lao động, của sự chuyên cần làm việc. Hình tượng tiêu biểu của thơ Võ Quảng là một anh đom đóm đêm đêm “xách đèn đi gác”(Anh đom đóm). 
1.Những nội dung phổ biến:
+ tình cảm gia đình, tình yêu đất nước
+ bao trùm nhất thơ ông là tình bạn
+ những hiểu biết ban đầu về thế giới sự vật, hiện tượng
( có khi những nội dung này được lồng ghép lại)
*Thơ ông đề cập tới nhiều vấn đề về tình cảm gia đình, tình yêu đất nước. 
Ông vẽ lên bức tranh quê hương thân thuộc đầy màu sắc: 
...Vườn quê ta nghìn năm 
Bao đời nay thân thuộc 
Một màu xanh êm đềm 
Trăm hương thơm vị ngọt 
*Nội dung bao trùm nhất thơ ông là tình bạn. 
Điều dễ nhận thấy là thơ Phạm Hổ nói nhiều về chủ đề tình bạn. Trong hơn 10 tập thơ viết cho các em, đã có 6 tập về chủ đề này” .
Dấu hiệu nhận biết chủ đề tình bạn trong thơ Phạm Hổ trước hết là ở việc đặt tên cho các tập thơ: Chú bò tìm bạn, Bạn trong vườn, Những người bạn im lặng, Những người bạn ồn ào… 
ta thấy cảm hứng tình bạn xuyên suốt ở hầu hết mọi bài thơ, tập thơ. Vd: bài thơ chú bò tìm bạn 
…Bò ra sông uống nước 
Thấy bóng mình, ngỡ ai 
Bò chào: - kìa anh bạn 
Lại gặp anh ở đây! 
 Nước đang nằm nhìn mây
Nghe bò cười nhoẻn miệng 
Bóng bò chợt tan biến 
Bò tưởng bạn đi đâu
Cứ ngoái trước nhìn sau
Ậm…ò tìm gọi mãi…”. 
Trong thơ Phạm Hổ, chú bò có cái lơ ngơ nhưng thật đáng yêu. Đáng yêu ở hành vi biết chào hỏi, thiết tha gọi bạn…
Con chó, con mèo cũng chơi với nhau thật thân thiết
 vd: chơi ú tim	
“ Rủ nhau chơi ú tim 
Giờ đến phiên chó trốn 
Mèo đảo mắt tìm quanh 
Chó nấp đâu giỏi gớm …. 
Phạm Hổ cũng nói về con đom đóm nhưng lại là con đom đóm soi đòi cho bạn mình đi học ban đêm
Ngoài việc đặt tên cho từng tập thơ theo chủ đề tình bạn, ông cũng kết hợp tạo ra những hệ thống: bạn trong nhà, bạn trong vườn, những người bạn im lặng, những người bạn ồn ào… Tất cả những việc làm này đã tô đậm cảm hứng tình bạn trong thơ ông.
Cùng với nội dung tình bạn, Phạm Hổ còn muốn cung cấp cho các em những hiểu biết ban đầu về thế giới sự vật, hiện tượng. 
Để lồng ghép các nội dung, ngoài loài vật, cỏ cây, còn viết khá nhiều về các đồ vật trong nhà như cầu chì, chổi, rế... và tất cả được quan sát, cảm nhận từ góc độ tình bạn. 
Vd: “ Chảo, nồi đang bận nấu 
 	Rế ngồi bên đợi chờ”
Vì ông muốn giúp cho các em những hiểu biết ban đầu về sự vật hiện tượng: tên gọi, đặc điểm về hình thức, ích dụng… Đây là lí do giải thích vì sao Phạm Hổ hay sử dụng hình thức định nghĩa vốn ít thấy ở những cây bút khác ...
Vd: bài thơ về sự giải thích tự nhiên
 Bướm em hỏi chị
“Chị ơi, vì sao 
Hoa hồng lại khóc 
Không phải đâu em 
Đấy là hạt ngọc 
Người gọi là sương ……(Bướm em hỏi chị).
Hay Phạm Hổ viết hẳn một bài thơ khác theo lối định nghĩa. 
“Nước lên xuống: biển cả 
Nước nằm im: ao hồ 
Nước chảy xuôi: sông suối 
Nước rơi đứng: trời mưa” (Nước) 
NGHỆ THUẬT
Ông sử dụng nhiều nhất là nghệ thuật miêu tả rất tinh tế :
tả con trâu:
 da đen bóng loáng 
ức rộng thênh thênh 
đôi sừng vênh vênh 
chóp sừng nhọn hoắt 
nghệ thuật miêu tả thiên nhiên rất đặc sắc làm cho những vẻ đẹp thiên nhiên gần gũi mà kì diệu 
vd: trong bài thơ :Ai cho em biết , cảnh vật mùa xuân được tạo nên từ hoa cải ,hoa cà… thật gần gũi nhưng qua sự miêu tả của tác giả ta có thể thấy hiện ra trước mắt cả một mùa xuân đầy màu sắc và tràn ngập nhựa sống
-thơ Võ Quảng cho ta cảm giác như được dạo chơi trong một nơi kì lạ ,ở đó bài nhiều loại chim ,loại cỏ thơm ,có những giọt sương sớm ,những ánh nắng ban mai … thiên nhiên rộn ràng âm thanh màu sắc ,đầy ắp tiếng cười ,tiếng hát 
Thơ Võ Quảng rất loại nhạc điệu đa dạng ,trẻ em thích và dễ thuộc thơ ông cũng vì nhạc điệu đó ông hay sáng tác thơ có âm điệu giống như đồng dao:vd: bài thơ ai dậy sớm ,có bài êm dịu ,hài hòa như bài “anh đom đóm” hay bài tiết tấu thay đổi như “gà mái hoa”
Sử dụng các biện pháp tu từ làm cho vốn từ thêm sinh động và hấp dẫn hơn ,tạo sự chắc khỏe, vui tươi với từ láy, những thanh trắc.
ông hay dùng vần trắc trong thơ bởi vần chắc hợp với tâm hồn vui tươi ,nghịch ngợm ,của trẻ thơ.Bên cạnh đó còn tạo cho bài thơ một sự vui tươi, sinh động , hơn nữa còn có thể rèn phát âm cho trẻ, buộc trẻ phải tập trung
Khéo léo tạo những mảng từ tượng thanh bằng cách dùng hoàn toàn tiếng kêu của loài vật như: gà tục tục tác ,vịt thì cạc cạc cạc ,lợn thì ịt ịt ịt
Ông khai thác tối đa các phép nhân hóa, so sánh, xây dựng các hình ảnh liên tưởng độc đáo và vui tươi. 
Đọc bài thơ về cái đinh, cái đinh như một cậu bé vui nhộn, tự hào khi làm được một việc tốt :	
 Cho chị treo gương 
 Cho em treo ảnh 
	Xong rồi hóm hỉnh 
	Nhô đầu nhìn quanh”
Cái chổi khác nào một cô bé thích làm điệu
“Thích buộc nhiều thắt lưng 
 Cả đời không đi dép
 Chổi múa dạo một vòng
Rác trong nhà biến sạch”
Phép so sánh trong trường hợp sau đây giúp các em nắm được đặc điểm của từng đồ vật: 
 “Dao chỉ một lưỡi 
	 Kéo có đến hai 
	 Mỗi người một việc 
	 Ai nào kém ai 
	 Cả hai đều biết 
	 Yêu ông đá mài”
Khác với Võ Quảng ,để tạo thêm sự hấp dẫn cho trẻ con, ông hay dùng những chi tiết hồn nhiên, ngộ nghĩnh trong sáng tác.
vd: Ai đã đọc Ngủ rồi, Chơi ú tim, Ngựa con… hẳn khó có thể quên được những câu nói, những suy nghĩ đáng yêu của con trẻ. Trả lời câu hỏi của mẹ :
   Đã ngủ chưa đấy hả? 
cả đàn gà con nhao nhao :
 “Ngủ cả rồi đấy ạ !”. 
Ngủ rồi  mà vẫn “ nhao nhao” thì chỉ có trẻ con mới làm được. Cũng  chỉ trẻ con mới có kiểu lý luận này :  
	Không mình nấp giỏi thật 
	Lỗi chỉ tại cái đuôi ! 	(chơi ú tim)
Đôi khi, Phạm Hổ cũng đưa cả nét dí dỏm của người lớn vào thơ. 
 Bài thơ Soi gương là một ví dụ. 
“ Có ai đang khóc nhè Mà soi gương không bố ?
Một đứa khóc đủ rồi
Soi chi thành hai đứa” 
Bài thơ có cái hồn nhiên của đứa trẻ (câu hỏi), lại có cái hóm hỉnh của người bố (câu trả lời). Chất hồn nhiên, chất dí dỏm kết hợp hài hòa khiến cho bài thơ thêm phần đáng yêu. 
+ Ngoài hình thức tổ chức thông thường, thơ Phạm Hổ còn sử dụng các hình thức khác:Hỏi – đáp, định nghĩa và trích dẫn. 
Vd: 	
	“Cua con hỏi mẹ 
	Dưới ánh trăng đêm 
	 Cô lúa đang hát 
	Sao bỗng lặng im ….(Cua con hỏi mẹ). 
Thực ra, cấu trúc hỏi - đáp được sử dụng nhiều trong thơ cho thiếu nhi, tuy nhiên đóng góp của ông là ở chỗ đã sử dụng thành công, tạo ra những bài thơ hay như Ngủ rồi, Bướm em hỏi chị, Đất và hoa, Thỏ dùng máy nói… Sáng tạo riêng của Phạm Hổ chính là ở hình thức thơ định nghĩa và trích dẫn. Bài Nước  vừa dẫn trên là một bài thơ theo hình thức định nghĩa. 
Kiểu thơ trích dẫn được xây dựng trên cơ sở mô phỏng lời nói. 
Vd: 
« Mẹ, mẹ ơi, cô bảo 
 Cháu ơi, chơi với bạn 
 Cãi nhau là không vui 
 Cái mồm nó xinh thế 
 Chỉ nói điều hay thôi ! ».
Phạm Hổ cũng rất coi trọng vai trò của nhạc điệu để giúp các bé dễ nhớ. 
Để làm nên điều đó,Phạm Hổ thường hay sử dụng thể thơ hai, ba, bốn hoặc năm chữ. Nhịp thường ngắn, có giá trị miêu tả hiện thực, để các bé có thể vận dụng trí tưởng tượng phong phú của mình,Chẳng hạn, nhịp 2/2 ở bài Sen nở gợi tả những cánh sen đang từ từ hé mở : “Từ từ / Khẽ mở /  Trăm nghìn / Cửa lụa / Xinh tươi /  Sáng hồng…”. 
thơ Phạm Hổ tạo nghĩa mới cho những âm thanh tự nhiên.
 Tiếng “ tí te…tí te” của xe chữa cháy được nhà thơ cảm nhận là tiếng sẵn sàng “có ngay… có ngay”(Xe chữa cháy), tiếng “cục tác… cục tác” của cô gà mái là một thông báo vui trứng còn nhiều, đẻ hoài “không hết, không hết ”(Gà đẻ)… Cách tạo nghĩa này đã làm cho hình tượng thơ thêm phần sinh động, ý nghĩa. Cuộc sống trở nên rộn ràng, hối hả và tràn đầy sức sống. 
CÂU 7:TẠI SAO NÓI THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA LÀ ĐỒNG DAO HIỆN ĐẠI
Đọc thơ Trần Đăng Khoa, không ít người nghĩ đó là đồng dao, Sở dĩ nói thơ Trần Đăng Khoa là đồng dao hiện đại vì trong thơ Trần Đăng Khoa có những nét đặc trưng của đồng dao như phép trùng lặp,vô nghĩa có duyên,….hơn nữa những bài thơ của ông còn đáp ứng được yêu cầu của văn học hiện đại.
Phân tích:
Những đặc điểm giống nhau giữa thơ Trần Đăng Khoa với đồng dao:	
Đặc điểm
Ví dụ chứng minh
Đồng dao
Thơ Trần Đăng Khoa
Về mặt hình thức thì thơ Trần Đăng Khoa và đồng dao đều ngắn gọn, từ ngữ đơn giản, dễ đọc, dễ hiểu và dễ nhớ , gần gũi với trẻ em
bàn tay trắng 
bàn tay đen
đĩa đậu đen
đĩa đậu đỏ
bỏ vô nồi
nước sôi
Ò ó o… 
Ò ó o… 
Tiếng gà 
Tiếng gà 
Giục quả na 
Mở mắt 
Tròn xoe 	
Giục hàng tre 
Đâm măng 
Nhọn hoắt…
Giúp cho trẻ nhận biết về thế giới xung quanh
Con vỏi con voi
Cái vòi đi trước
Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau
Còn cái đuôi đi sau rốt
Tôi xin kể nốt
Cái chuyện con voi
Kể cho bé nghe
Hay nói ầm ĩ
Là con vịt bầu
Hay hỏi đâu đâu
Là con chó vện	
Hay chăng dây điện
Là con nhện non
Ăn no quay tròn
Là cối xay lúa….
Một số bài đồng dao và thơ TĐK được phổ nhạc thành bài hát giống như đồng dao được kết hợp với trò chới dưới dạng đọc như hát.
Chi chi chành chành
Rồng rắn lên mây
Hạt gạo làng ta, hoa bé ngoan, úp lá khoai…
Sự vô nghĩa có duyên
Thể thơ, vần và nhịp, tiết tấu, cách đọc cũng tươi vui, nhộn nhịp làm cho trẻ em thích đọc,thích hát => giúp trẻ luyện phát âm, ghi nhớ. 
Chi chi chành chành
Chi chi chành chành 
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa đứt cương
Ba vương ngũ đế
Cấp kế đi tìm
Ù à ù ập…
Bài thơ mưa:
Sắp mưa
Sắp mưa
Những con mối 
bay ra
Mối trẻ 
bay cao
mối già
bay thấp
gà con
rối rít tìm nơi 
ẩn nấp
ông trời
mặc áo giáp đen….
Một số bài thơ của Trần Đăng Khoa ở thể thơ tự do, không phân theo từng khổ thơ , Ngoài những nét tương đồng trên, trong thơ TĐK cũng mang đậm chất đồng dao như cách gieo vần.
bàn tay trắng 
bàn tay đen
đĩa đậu đen
đĩa đậu đỏ
bỏ vô nồi
nước sôi
Ò ó o… 
Tiếng gà
Tiếng gà 
Giục quả na 
Mở mắt 
Tròn xoe 	
Giục hàng tre 
Đâm măng 
 Nhọn hoắt…
Thơ Trần Đăng Khoa được sáng tác trong giai đoạn văn học hiện đại và đáp ứng được nhiều yêu cầu của văn học hiện đại như : có tính giáo dục cao, Bồi dưỡng tâm hồn, tình yêu trong trẻ, giúp trẻ phát triển nhân cách một cách toàn diện.
Bà còng đi chợ trời mưa
Cái tôm cái tép đi đưa bà còng
Đưa bà qua quãng đường đông
Đưa bà về tận ngõ trong nhà bà
Tiền bà trong túi rơi ra
Tép tôm nhặt được trả bà mua rau
Giáo dục trẻ biết giúp đỡ người lớn tuổi và không tham của rơi
Khi mẹ vắng nhà
Khi mẹ vắng nhà, em luộc khoai
Khi mẹ vắng nhà em cùng chị giã gạo
Khi mẹ vắng nhà em thổi cơm
Khi mẹ vắng nhà em nhổ cỏ vườn
Khi mẹ vắng nhà em quét sân và quét cổng…..
Bồi dưỡng tình cảm gia đình , giáo dục trẻ biết giúp đỡ cha mẹ…
CÂU 3:CHỨNG MINH VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM ĐA DẠNG VỀ PHONG CÁCH
Trước hết cần hiểu phong cách là gì?
Phong cách sáng tác (phong cách nghệ thuật) là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc.
Trong nền văn học Việt Nam có rất nhiều nhà thơ ,nhà văn tài năng, trong đó có nhiều người ưu ái và dành nhiều sáng tác cho thiếu nhi, dù có chung một tình cảm dành cho trẻ thơ , tuy nhiên mỗi người cách thể hiện khác nhau qua các sáng tác của mình , vì vậy có thể nói văn học thiếu nhi đa dạng về phong cách.
Cái nét riêng trong phong cách sáng tác ấy thể hiện nổi bật, có giá trị và khá nhất quán trong hầu hết các tác phẩm của họ, lặp đi lặp lại làm cho người đọc nhận ra sự khác biệt với tác phẩm của các nhà văn khác.
Trong thơ văn, cùng là viết cho thiếu nhi nhưng mỗi người lại có một lập trường riêng , tư cách riêng :
Tú Mỡ sáng tác cho thiếu nhi với tư cách : ông viết cho cháu thể hiện qua các bài: thương ông, cái Búp tăng gia, cháu là thanh niên,dạy búp bê…
"Sớm sớm theo ông ra đồi
Tay nâng không nổi cái cuốc: 
-"Cháu cũng tăng gia ông ơi".
-"Búp tăng gia gì? - Ông hỏi …(cái Búp tăng gia)
Tên thực là bé Việt 
Như ông cứ khôi hài 
Gọi cháu là thằng Vịt…. (vịt con trong vườn trẻ)
Xuân quỳnh viết cho trẻ với tư cách mẹ viết cho con như bài lời ru của mẹ ,lời ru trên mặt đất,mẹ và con…
- Mẹ ơi, bông hoa kia 
Là của ai hở mẹ?
Cái màu xanh trên cửa 
Kia nữa là của ai?
- Của con đấy con ơi
Đều của con tất cả …( mẹ và con)
Con yêu mẹ bằng ông trời
Rộng lắm không bao giờ hết
- Thế thì làm sao con biết
Là trời ở những nơi đâu
Trời rất rộng lại rất cao
Mẹ mong bao giờ con tới!(con yêu mẹ)
Phạm Hổ viết với tư cách là bạn :chú bò tìm bạn, mèo và tro bếp, rong và cá, sáo đậu lưng trâu….
Thách anh trâu đấy 
Đánh được sáo đen! 
Anh quật đuôi lên 
Sáo sà xuống đất 
Anh quay sừng húc 
Sáo lại lên lưng 
Sáo mổ tứ tung 
Là anh thua nhé!( sáo đậu lưng trâu)
Cùng một chủ đề , vấn đề mỗi nhà văn , nhà thơ có cách thể hiện khác nhau bằng cái nhìn khác nhau
Vd: chủ đề con đom đóm:
Phạm Hổ nói về con đom đóm trong tình bạn:
Anh đom đóm ơi 
Đèn anh xanh ngắt
Gió thổi không tắt
Anh xách đi đâu 
Tôi ra đầu cầu 
Lập lòe soi lối 
Cho cóc tối tối 
Đi học bình dân
 Võ Quảng viết về con đom đóm bằng một lời giải thích:
Mặt trời gác núi
Bóng tối lan dần,
Anh Đóm chuyên cần
Lên đèn đi gác….
Cùng thể hiện những nét đặc trưng của trẻ con nhưng:
Trong ngủ rồi Phạm Hổ viết là :
Gà mẹ hỏi gà con: 
- Đã ngủ chưa đấy hả? 
Cả đàn gà nhao nhao: 
- Ngủ cả rồi đấy ạ! 
Đã ngủ mà vẫn nhao nhao thì chỉ có thể là trẻ con
Ông ạ cháu gia tăng chuối,
Cháu lại tăng gia cả ... xôi."
Ông ngắm cháu ngoan loắt choắt,
Phủi tay, hôn cháu, cả cười:
“Ông chịu con nhà láu thật!
Tăng gia toàn thứ thích xơi"….
Không ai tăng gia xôi cả , chỉ có thể là trẻ con.
Phong cách sáng tác trong văn học thiếu nhi Việt Nam đa dạng là do , mỗi nhà văn , nhà thơ điều có sở trường riêng.
Vd: Trần Đăng Kh

File đính kèm:

  • docxĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP VĂN HỌC THIẾU NHI MÙA YÊU.docx