Đề cương Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới (Từ năm 1986 đến nay)
+ CL 1991 xác định: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
+ Đại hội X xác định: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
+ Cương lĩnh 2011 xác định: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ, phù hợp.
- Bổ sung, điều chỉnh một số điểm:
+ Mở rộng biên độ “ do nhân dân làm chủ” thay cho cụm từ “ do nhân dân lao động làm chủ”.
+ Điều chỉnh đặc trưng con người: bỏ cụm từ “ con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Thay vào đó là: “ con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
+ Điều chỉnh đặc trưng dân tộc: Thay cụm từ “ Các dân tộc trong nước phát triển toàn diện”.bình đẳng, đơàn cộng kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” bằng cụm từ “ Các dân tộc trong đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”.
ý kiến, nguyện vọng và tổng kết những sáng kiến của nhân dân. + Đúc kết kinh nghiệm từ những bài học thành công và không thành công của các nước XHCN: Trung Quốc, Đông Âu và các nước trong khu vực. - Cơ sở lý luận Không ngừng đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về CNXH, về thời kỳ quá đô (qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, qui luật giá trị, qui luật cung cầu) trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua tổng kết thực tiễn và nhận thức rõ hơn về lý luận, Đại hội VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới. Đường lối đổi mới là sản phẩm của tư duy khoa học và thể hiện quyết tâm sửa chữa sai lầm trong nhận thức qui luật khách quan và cả trong vận dụng và hành động trong thực tiễn. Từ sau Đại hội VI của Đảng, nhất là từ khi có Cương lĩnh 1991, trong quá trình lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, cụ thể hóa và thể chế hóa đường lối, từng bước thực hiện có hiệu quả đường lối đổi mới. 2. Quá trình bổ sung, phát triển đường lối đổi mới Thực hiện đường lối đổi mới, các kỳ Đại hội Đảng và Hội nghị Trung ương không ngừng bổ sung, phát triển đường lối đổi mới. *Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991) Đại hội khẳng định: - Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. - Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một phương hướng chiến lược lớn. - Cùng với phát triển kinh tế, phải chú trọng chính sách xã hội vì con người, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH xác định mô hình xã hội XHCN ở Việt Nam với 6 đặc trưng và 7 phương hướng để xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam. Chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. * Đại hội VIII ( 6-1996) Đại hội khẳng định: Sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội. Những nhiệm vụ đề ra trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ về cơ bản hoàn thành, cho phép nước ta chuyển sang thời kỳ mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đại hội khẳng định, cùng với những thành tựu của công cuộc đổi mới, con đường đi lên CNXH ngày càng được xác định rõ hơn. Đại hội tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, thể hiện ở những điểm sau: - Làm rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và chặng đường tiếp theo trong thời kỳ quá độ. - Chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. - Coi đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. - Làm rõ hơn định hướng XHCN trong xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. - Khẳng định tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. - Xác định phát triển giáo dục đào tạo và khoa học- công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đại hội IX ( 4-2001) - Đại hội đánh giá tổng quát về thế kỷ XX và khẳng định những thành tựu mà cách mạng Việt Nam đã giành được, đồng thời nêu triển vọng của thế kỷ XXI. - Đại hội chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, nhằm xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. - Đại hội xác định con đường đi lên CNXH ở nước ta là xây dựng đất nước theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Xác định mô hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ là kinh tế thị trường định hướng XHCN. - Đại hội đề ra Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010 nhằm đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Đai hội X ( 4-2006) - Tổng kết 20 đổi mới, Đại hội khẳng định: Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ; hệ thống luận điểm về công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH Ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. - Đại hội tiếp tục khẳng định chủ trương: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, vươn lên trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. - Đại hội bổ sung thêm 2 đặc trưng của xã hội XHCN. Đó là, xây dựng xã hội :dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dan, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội XI ( 1-2011) - Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và 10 năm thực hiện Chiến lược kinh tế- xã hội 10 năm ( 2001- 2010), Đại hội khẳng định: Công cuộc đổi mới, CNH,HĐH đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình. - Đại hội xác định mục tiêu tổng quát: Xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Đại hội thảo luận và đưa ra những quyết sách quan trọng, trong đó có các văn kiện: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( bổ sung và phát triển 2011), Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011- 2020, Báo cáo Chính trị và Điều lệ Đảng (sửa đổi ). *Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( bổ sung và phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 ở những điểm sau: - Bổ sung đặc trưng về mục tiêu tổng quát: Dân giàu, nước mạnh , dân chủ, công bằng, văn minh. - Bổ sung đặc trưng về Nhà nước: có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hai đặc trưng này đã được Đại hội X bổ sung, song điểm mới là đưa cụm từ “ dân chủ” lên trước cụm từ “ công bằng”. Đồng thời, thay từ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bằng từ do Đảng Cộng sản lãnh đạo. - Điều chỉnh đặc trưng kinh tế + CL 1991 xác định: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. + Đại hội X xác định: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. + Cương lĩnh 2011 xác định: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ, phù hợp. - Bổ sung, điều chỉnh một số điểm: + Mở rộng biên độ “ do nhân dân làm chủ” thay cho cụm từ “ do nhân dân lao động làm chủ”. + Điều chỉnh đặc trưng con người: bỏ cụm từ “ con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Thay vào đó là: “ con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện + Điều chỉnh đặc trưng dân tộc: Thay cụm từ “ Các dân tộc trong nước phát triển toàn diện”.bình đẳng, đơàn cộng kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” bằng cụm từ “ Các dân tộc trong đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”. + Trình bày rõ đặc trưng quốc tế: CL 2011 xác định “ có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”, bỏ cụm từ “nhân dân”. * Thực hiện nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng, trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, tùy tình hình thực tế, các nhiệm kỳ Đại hội Đảng đã kịp thời bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. - Trong nhiệm kỳ khóa VI, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, các Hội nghị Trung ương đã tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách: + Hội nghị Trung ương hai (4-1987), bàn và ra nghị quyết về phân phối lưu thông. + Hội nghị Trung ương ba (7-1987) về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng chuyển sang hạch toán và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. + Bộ chính trị ra Nghị quyết 10 (5-4-1988) về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp. + Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, đặc biệt là sự khủng hoảng của hệ thống XHCN, Hội nghị Trung ương sáu (1989) xác định những nguyên tắc cơ bản nhằm giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới: => Một là, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả hơn bằng quan niệm đúng đắn về CNXH với những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. => Hai là, đổi mới tư duy nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê nin. => Ba là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước. =>Bốn là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là là động lực của sự nghiệp xây dựng CNXH. =>Năm là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế XHCN, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. + Hội nghị Trung ương tám ra Nghị quyết 8a về tình hình các nước XHCN, sự phá hoại của CNĐQ và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta và đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. - Trong nhiệm kỳ khóa VII, các Hội nghị Trung ương đã ra nhiều nghị quyết về các vấn đề như: + Hội nghị Trung ương hai quyết định sửa đổi Hiến pháp và cải cách bộ máy nhà nước. + Hội nghị Trung ương ba (6- 1992) Về công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng. + Hội Nghị Trung ương bốn (1-1993) ra các nghị quyết về: Tiếp tục đổi mới sự nghiệp văn hóa- văn nghệ; sự nghiệp giáo dục- đào tạo; về vấn đề chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân; về chính sách dân số- kế hoạch hóa gia đình; về công tác thanh niên trong tình hình mới. + Hội nghị Trung ương năm (6-1993) ra Nghị quyết về đổi mới và phát triển kinh tế nông nghiệp và xã hội nông thôn đến năm 2000. + Hội nghị Trung ương bảy (7- 1994) ra Nghị quyết về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng CNH, HĐH đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới + Hội nghi Trung ương tám (11-1995) ra Nghị quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính nhà nước. + Trong số các Hội nghị Trung ương trong nhiệm kỳ khóa VII, Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ có vị trí đặc biệt quan trọng. Hội nghị đã chỉ ra 4 nguy cơ trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới. Đó là: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, nguy cơ chệch hướng XHCN, nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu, nguy cơ “ diễn biến hòa bình”. Hội nghị xác định, đất nước ta bước vào thời kỳ mới- thời kỳ đẩy tới một bước CNH, HĐH đất nước. - Trong nhiệm kỳ khóa VIII, Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đổi mới trên các lĩnh vực: + Hội nghị Trung ương hai ( 12 -1996) ra Nghị quyết về định hướng chiến lược phát triển giáo dục- đào tạo và khoa học- công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. + Hội nghị Trung ương ba ( 6 – 1997) ra Nghị quyết Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; Nghị quyết Về Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH. + Hội nghị Trung ương năm (7-1998) bàn và Nghị quyết Về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. + Hội nghị Trung ương sáu lần hai ra Nghị quyết về một số nhiệm vụ cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. + Hội nghị Trung ương bảy (8-1999) ra Nghị quyết Một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách Nhà nước. - Trong nhiệm kỳ khóa IX, đường lối đổi mới tiếp tục được bổ sung, phát triển: + Hội nghị Trung ương ba (8 – 2001) ra Nghị quyết Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước. + Hội nghị Trung ương năm (2- 2002) ra các nghị quyết: Về phát triển kinh tế tập thể; về phát triển kinh tế tư nhân; Về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; Về công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới; Về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở. + Hội nghị Trung ương sáu (7- 2002) Kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương hai (khóa VIII) về phương hướng phát triển giáo dục - tạo và khoa học- công nghệ đến năm 2005 và đến năm 2020. + Hội nghị Trung ương bảy ( 11- 2002) ra các nghị quyết: Về công tác dân tộc; Về công tác tôn giáo; Về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. + Hội nghị Trung ương tám ( 7- 2003) ra Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong tình hình mới. + Hội nghị Trung ương mười Kết luận tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương năm ( khóa VIII). - Nhiệm kỳ khóa X, Đảng tập trung bàn thảo và ra nghị quyết về các vấn đề: + Hội nghị Trung ương ba (7-2006) ra Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng lãng phí. + Hội nghị Trung ương bốn (2- 2007) ra Nghị quyết về định hướng đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới. + Hội nghị Trung ương năm (7- 2007) ra các nghị quyết: Về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí; Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; Về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; Về đẩy mạnh cải cách hành chính. + Hội nghị Trung ương sáu (7- 2008) ra các nghị quyết: Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH; Về xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. + Hội nghị Trung ương bảy ra nghị quyết: Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Qua các kỳ Đại hội Đảng và Hội nghị TW, đường lối đổi mới không ngừng được bổ sung và phát triển để phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. Qua đó, khẳng định sự trưởng thành và vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới, CNH,HĐH đất nước. 3. Quá trình Đảng chỉ đạo công cuộc đổi mới * Trên lĩnh vực kinh tế. Các kỳ Đại hội Đảng, từ Đại hội VI đến Đại hội X và các Hội nghị Trung ương đã bước đầu làm rõ những vấn đề lý luận kinh tế trong thời kỳ đổi mới. Đó là: - Xác định mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Tiến hành chuyển đổi cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường; nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế thông qua pháp luật, kế hoạch, chính sách. - Phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương, cơ sở. - Thực hiện công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa trong một nền kinh tế mở, gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với từng bước phát triển kinh tế tri thức. - Bảo đảm nguyên tắc độc lập, tự chủ, bình đẳng trong quan hệ kinh tế quốc tế, trong đó nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng; thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Þ Sự đổi mới trên lĩnh vực kinh tế đã đem lại diện mạo mới cho đất nước - Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất- kỹ thuật được tăng cường, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 10 năm 1990-2000 đạt 7,5%, 10 năm 2001-2010 đạt 7,25%; GDP năm 2000 so với năm 1990 tăng hơn 2 lần. GDP năm 2010 đạt trên 100 tỷ USD, gấp 3,26 lần năm 2000; kim ngạch xuất khẩu gấp 5 lần năm 2000. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 200 USD năm 1990 lên 1.168 USD năm 2010. Hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn: dầu khí, dệt may, da dầy, thủy hải sản, lương thực, cây công nghiệp... Giải quyết vững chắc vấn đề lương thực. Từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới. - Thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh. Trong 5 năm 2006-2010, tổng số vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm đạt khoảng 146,8tỷ USD, gấp 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp 7 lần giai đoạn 2001-2005. - Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành. Nhà nước từng bước tạo ra khung pháp lý cho các yếu tố thị trường bằng các luật như: Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài, đồng thời thể chế hóa các chính sách về đất đai, tín dụng, ưu đãi thuế... - Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đẩy mạnh. Phát triển mạnh mẽ các khu công nghiệp (cả nước có khoảng 280 khu công nghiệp) và hình thành các vùng kinh tế trọng điểm. - Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu GDP tăng nhanh từ 28,8% năm 1995 lên 41,1% năm 2010. Tỷ trọng các ngành dịch vụ tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38% năm 2005 và 38,3% năm 2010. Tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống còn 20,6% năm 2010. - Kinh tế Việt Nam hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới Đến năm 2005, Việt Nam quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, ký 90 hiệp định thương mại song phương. *Về văn hóa, xã hội và con người Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và các kỳ Đại hội Đảng VII, VIII, IX, X, XI, đặc biệt là NQTW4 (KII), NQTW5(KVIII) và Kết luận NQTW10(KIX), Đảng đã từng bước đổi mới tư duy lý luận và đường lối văn hóa. - Văn hóa được xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là nguồn lực nội sinh quan trọng của phát triển. - Hình thành quan niệm xây dựng và phát triển văn hóa phải gắn kết và tiến hành đồng bộ với phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt. - Khẳng định tính chất tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam. - Nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng, xây dựng và phát triển văn hóa là nhiệm vụ của toàn dân do Đảng lãnh đạo. - Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. - Con người là vốn quy nhất, con người và sự phát triển con người được đặt vào vị trí trọng tâm của chiến lược kinh tế - xã hội. Về vấn đề xã hội: Các Nghị quyết Đại hội Đảng và Hội nghị Trung ương đã phát triển lý luận về các vấn đề xã hội: - Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội: "... thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển" Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.101. . - Chủ trương khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. ® Chính phủ ban hành nhiều chính sách xóa đói, giảm nghèo: Từ năm 1998, Chính phủ thông qua chương trình 135 Về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Từ năm 2004, Chính phủ thông qua Chương trình 134 Về hỗ trợ đất ở, nhà ở, đất canh tác và nước sạch đặc biệt nghèo. Từ năm 2008, Chính phủ thông qua Chương trình 30A Về hỗ trợ, xóa nghèo bền vững cho 62 huyện nghèo nhất. - Xác định phát triển giáo dục - đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu. .* Những đổi mới về lý luận trên lĩnh vực văn hóa - xã hội đã đem lại những thành công trong thực tế. - Đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 200 USD năm 1990 lên 600 USD năm 2005 và 1.168 USD năm 2010. Năm 2011, thu nhập trên đầu người đạt khoảng hơn 1.200 USD. - Công tác giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả tốt: Tỷ lệ nghèo đói giảm từ 30% năm 1992 xuống dưới 7% năm 2005 (theo chuẩn cũ); từ 58% năm 1993 xuống còn 18,7% năm 2004 (theo chuẩn mới) và từ 58% năm 1993 xuống còn 20% năm 2008 (theo chuẩn quốc tế). Tỷ lệ lao động qua đ
File đính kèm:
- Duong loi doi moi cua Dang va Cuong linh XD dat nuoc.... (2sua) doc.doc