Chuyên đề Vai trò của giáo dục hiện nay
Có thể nói thời đại nào thì cũng cần đến giáo dục. Có những tưu tưởng giáo dục từ thời cổ đại mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Platon thời cổ đại đã đưa ra lý luận giáo dục thể hiện sự hoàn chỉnh về hệ thống giáo dục và nội dung giáo dục; đánh giá cao vai trò của giáo dục, muốn trở thành người phải qua giáo dục, giáo dục là nhiệm vụ của toàn xã hội; giáo dục con người là một quá trình lâu dài và phải được tiến hành từ thuở ấu thơ. Triết lý giáo dục của Khổng Tử từ thời phong kiến giờ đây đang được coi trọng.
Một vài thu hoạch của anh (chị) qua chuyên đề: Vai trò của giáo dục lớn tới mức, nó có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong của cả một dân tộc. Vì giáo dục chính là trụ cột của một quốc gia để tạo dựng, giữ gìn và phát triển hệ giá trị xã hội. Có thể nói hoạt động giáo dục là hoạt động cơ bản của xã hội loài người. Từ lúc xã hội loài người còn trong thời kỳ mông muội, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ thì hiện tượng thế hệ trước truyền thụ cho thế hệ đi sau những kinh nghiệm lịch sử - xã hội và thế hệ đi sau tiếp thu lĩnh hội những kinh nghiệm đó, hiện tượng đó chính là hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục có thể coi là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó làm cho đối tượng đó dần dần có được những phẩm chất và năng lực đề ra. Hoạt động giáo dục còn được coi là quá trình phát triển của một cá nhân, là quá trình trở thàh người, là sự phát triển nhân cách do tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Giáo dục là cơ sở hạ tầng của xã hội với các chức năng cơ bản là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Lịch sử giáo dục cho thấy giáo dục trải qua nhiều thời kỳ khác nhau. Trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, giáo dục mang tính thực tiễn tự phát và tính bình đẳng vì nó diễn ra trong chính cuộc sống lao động và sinh hoạt của con người; nó không theo một mục đích nội dung, chương trình đã định trước, mọi người đều được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Giáo dục dưới chế độ chiếm hữu nô lệ mang tính đặc quyền đặc lợi của giai cấp chủ nô; nội dung giáo dục chỉ là những gì cần thiết và có lợi cho chủ nô; học chủ yếu là thực hành, rèn luyện kỹ năng cho người lính chiến; học ý thức của người công dân như quan niệm về đạo đức thế nào đúng, saiGiáo dục thời kỳ chiếm hữu nô lệ gắn với trường học khi nhà nước sớm dựng ra trường học để dạy con cái họ và nhà nước sử dụng giáo dục như một công cụ đặc biệt. Thời kỳ này sản sinh ra nhiều nhà giáo dục tiêu biểu như Xôcrat, Platon, Arixtot, Đêmôcrit Dưới chế độ phong kiến và thời kỳ văn hoá phục hưng giáo dục được coi trọng, giáo dục có mục đích, nội dung có nguyên tắc và phương phápGiáo dục trong thời kỳ tiến TBCN có nhiều tư tưởng giáo dục tiến bộ như; giáo dục bình đẳng cho mọi trẻ em; giáo dục xuất phát từ đặc điẻm trẻ em; đề cao vai trò của môi trường; giáo dục con người phát triển nhiều mặt; coi trọng khoa học tự nhiên và các phương pháp dạy học tích cực. Nhiều nhà giáo dục tiêu biểu thời kỳ này như J.A.Coomenxki, J. Lốc, J. J. Rútxô Trong thời kỳ TBCN giáo dục được xem như là nhu cầu chính đáng của người lao động và nhà nước phải mở trường cho trẻ em với một nền giáo dục miễn phí, bắt buộc và không phụ thuộc vào tôn giáo, giáo dục phải xuất phát từ đặc điểm trẻ em và coi giáo dục là vạn năng, dùng giáo dục để thay đổi xã hội; vai trò của giáo viên được đề cao, lý luận sư phạm được coi trọng; nội dung giáo dục con người bao gồm nhiều mặt như đức, trí, thể, mỹ; nhân cách đứa trẻ được tôn trọng và trở thành vấn đề quan tâm lớn của các nhà sư phạm. Trong xã hội chủ nghĩa giáo dục coi trọng phát triển con người toàn diện kết hợp một cách hợp lý giữa giáo dục đạo đức, thể dục, trí dục, và lao động sản xuất. Có thể nói thời đại nào thì cũng cần đến giáo dục. Có những tưu tưởng giáo dục từ thời cổ đại mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Platon thời cổ đại đã đưa ra lý luận giáo dục thể hiện sự hoàn chỉnh về hệ thống giáo dục và nội dung giáo dục; đánh giá cao vai trò của giáo dục, muốn trở thành người phải qua giáo dục, giáo dục là nhiệm vụ của toàn xã hội; giáo dục con người là một quá trình lâu dài và phải được tiến hành từ thuở ấu thơ. Triết lý giáo dục của Khổng Tử từ thời phong kiến giờ đây đang được coi trọng. Trong lĩnh vực giáo dục Khổng Tử đã đưa ra được các nguyên tắc giáo dục như giáo dục không phân biệt giai cấp. Khổng Tử có một niềm tin vững mạnh vào sự bình đẳng và Ông chủ trương mở trường học để đón nhận học trò với điều kiện duy nhất để được nhập học là phải có lòng hiếu học. Ông đều tìm thấy một tiềm năng học vấn và nhất quyết giúp mọi môn sinh trở thành con người toàn diện. Giáo dục của Khổng Tử đồng nghĩa với phong cách xử thế. Theo Khổng Tử, Kiến thức đồng nghĩa với sự thông thái về cách xử thế, một đức tính cần thiết để mang lại đời sống tốt đẹp cho cá nhân và xã hội. Do đó, mục đích chính của nền giáo dục của Khổng Tử là huấn luyện cho con người cách xử thế để có thể sống hoà hợp với đồng loại, bất kể ở gần hay ở xa, cao hơn hay thấp hơn mình trong xã hội. Trách nhiệm của người thầy không phải chỉ để truyền bá kiến thức mà còn có một tiêu chuẩn lý tưởng về đạo đức để còn có thể trau dồi tư cách học trò của mình. Trong thời kỳ tiền TBCN có nhiều nhà giáo dục, tiêu biểu là J.A.Cômenxki (1592 - 1670) là nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc Séc và của trhế giới. Nhiều vấ đề do ông xây dụng có giá trị mở đường để giáo dục tiến tới sự hoàn thiện. Ông đã để lại trên 250 công trình có giá trị về văn hoá, khoa học, văn chươngnhưng nổi bật nhất vẫn là lĩnh vực giáo dục. Tác phẩm tiêu biểu của ông là "phép giảng dạy lớn" 1632 đặt cơ sở cho sự ra đời của một ngành khoa học mới là giáo dục học. Ông là người đầu tiên viết sách giáo khoa làm tài liệu cho học sinh và được xem là ông tổ của nền giáo dục thời đại. Cômenxki cho rằng muốn giáo dục trẻ em phải căn cứ vào trình độ phát triển của chúng. Nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục phải phụ thuộc vào trình độ phát triển của trẻ. Ông là người đưa ra hệ thống nguyên tắc dạy học khá hoàn chỉnh như dạy học phải mang tính trực quan; dạy học phải mang tính vững chắc của tri thức và sự mềm dẻo của tư duy; dạy học phải đảm bảo tính hệ thống, liên tụcÔng đã đưa ra được một hình thức tổ chức dạy học mới đó là hệ thống lớp - bài. Đây là một phát kiến vĩ đại của Cômenxki giúp cho việc đào tạo hàng loạt người có trình độ phát triển. Cômenxki còn đưa ra 4 đức hạnh cơ bản cần giáo dục cho học sinh và thanh niên là tính công bằng, tính thận trọng, đức tính điều độ và biết nhường nhịn. Ưu điểm nổi bật là J. A.Cômenxki không dừng lại ở lý luận, lý thuyết chung chung mà ông luôn gắn nó với thực tiễn. Ông cho rằng, đức hạnh con người cuối cùng phải thể hiện ở hành vi giao tiếp, đó là việc xử sự giữa con người với con người, giữa cá nhân với cộng đồng trong lời ăn, tiếng nói, cách chào hỏi, đi đứng, biểu hiện thái độ Vì vậy, ông chú ý đến việc giáo dục hành vi cụ thể, chi tiết. J.A.Cômenxki coi trọng việc người lớn làm gương cho trẻ, cho đó là cách giáo dục có tác dụng trực tiếp lớn lao: " cha mẹ, vú nuôi, thầy giáo, người lớnphải nêu gương của một cuộc sống nề nếp, vì trẻ em học bắt chước, trước khi hiểu biết". Có thể nói toàn bộ tư tưởng giáo dục của ông là kết quả của một quá trình lao động sáng tạo, thiên tài. Nó có giá trị muôn thuở vì nó là quy luật của mỗi quan hệ giữa giáo dục - tự nhiên - xã hội - con người trong quá trình phát triển nhân cách. Quan điểm của Mác thì con người là một thực thể tự nhiên, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ và giáo dục hình thành nhân cách con người. Học thuyết Mác - Ăngghen bàn đến giáo dục con người, về con người phát triển toàn diện. Theo C.Mác, trong xã hội tương lai thế hệ trẻ phải được chuẩn bị cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp nhiều mặt, phải biết kết hợp giáo dục đạo đức với thể dục, trí dục và lao động sản xuất. Sau này Lênin đã kế thừa tư tưởng về con người phát triển toàn diện của Mác - Ăngghen nhưng Lênin bổ sung thêm con người phát triển toàn diện là con người phát triển về nhiều mặt và biết làm mọi việc. Trong thời kỳ XHCN xuất hiện nhà giáo dục Xô viết vĩ đại đó là A.X.Macarenco. Bằng cuộc đời và hoạt động của mình chứng tỏ ông là nhà thực tiễn giáo dục XHCN tài ba và nhà lý luận giáo dục xuất sắc. Lý luận giáo dục và thực tiễn giáo dục của ông thể hiện 4 quan điểm lớn sau: Chủ nghĩa nhân đạo và niềm lạc quan XHCN; giáo dục trong tập thể và bằng tập thể; giáo dục trong lao động; giáo dục bằng viễn cảnh và tiền đồ. Ông cho rằng "những đứa trẻvẫn có những đốm sáng" và nhà giáo dục phải biết thổi lên ngọn lửaNghệ thuật sư phạm của Macarenco thể hiện ở việc sử dụng lời nói, cử chỉ, điệu bộ, tác phong của nhà sư phạm để tác động đến đối tượng giáo dục; bằng việc làm; bằng phương pháp giáo dục tác động song song và phương pháp bùng nổ; bằng việc tổ chức giáo dục Thế kỷ XXI đang chứng kiến những thay đổi mạnh mẽ về sự đa dạng văn hoá, bùng nổ thông tin, kiến thức và công nghệ caovới 3 cuộc cách mạng: CM Tin học, CM Truyền thông, CM Công nghệ; nhân loại đang bước vào nền kinh tế tri thức và đang xích lại gần nhảutong mỗi quan hệ song phương, đa phương, khu vực và châu lục. Xu thế hiện nay là quốc tế hoá và toàn cầu hoá. Những tiến bộ xã hội đó đã và đang mang lại những cơ hội đi kèm những thách thức, tạo ra sức ép cho hệ thống giáo dục phải có sự thay đổi trong việcđào tạo và cung cấp cho xã hội những con người có những khả năng: Làm việc theo nhóm, năng động, sáng tạo, lãnh đạo, phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện đại. Vói sự thay đổi liên tục của công nghệ đòi hỏi con người phải học tập thường xuyên, tri thức phải được cập nhật trong suốt cuộc đời con người. Kỹ thuật giảng dạy trong thế kỷ XXI mang tính đa phương tiện, giúp cho việc thay đổi nội dung và phương pháp dạy học, hình thành các phương thức học tập mới. Xu thế toàn dân học tập suốt đời phát triển mạnh; xã hội hoá học tập và học tập dưới nhiều hình thức. Trước đây đối tượng giáo dục là học sinh đang ở tuổi đi học nhưng ngày nay khái niệm đó được mở rộng ra đối tượng giáo dục là tất cả mọi người, thế giới đang thay đổi cách nhìn và hướng tới xã hội hoá học tập. Ngày nay giáo dục là một lĩnh vực quan trọng và lâu dài trong đầu tư phát triển, giữ vị trí then chốt trong quá trình phát triển bởi vì giáo dục chính là trụ cột của một quốc gia để tạo dựng, giữ gìn và phát triển. Nền giáo dục có tốt thì mới góp phần tạo dựng, bảo vệ được một hệ giá trị nhân bản, phù hợp với đặc trưng tốt đẹp của dân tộc và đủ sức mạnh làm nền tảng cho xã hội phát triển, hưng thịnh; ngược lại, với nền giáo dục kém và hệ quả đi kèm với nó, hệ giá trị yếu thì dân tộc đó khó có sức bật đi lên. Xu hướng phát triển giáo dục thế giới thế kỷ XXI dựa trên bốn trụ cột, đó học để biết, học để làm, học để chung sống và học để làm người. Con người trong thời kỳ CNH, HĐH phải hội đủ 13 tiêu chí và chiến lược phát triển giáo dục thế giới đề cập tới 21 vấn đề
File đính kèm:
- BAI_THU_HOACH_2_20150726_060200.doc