Chuyên đề Nội dung học tập năm 2013 về phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương của chủ tịch Hồ Chí Minh

Phong cách quần chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự thấm nhuần sâu sắc quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin: Quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; được thể hiện bằng phong cách: sâu sát quần chúng, vì lợi ích của quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng và suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

+ Phong cách quần chúng là phải đi sâu, đi sát quần chúng, gần gũi, gắn bó với nhân dân; trong quan niệm của Bác Hồ, là muốn chăm lo được cho nhân dân thì phải nắm được dân tình, phải hiểu thấu dân tâm, phải biết được dân cần gì, dân thiếu cái gì, dân khổ cái gì. Bác nói: “Đi vào trong quần chúng, hiểu quần chúng, để biết được họ thiếu cái gì, cần cái gì, để rồi từ đó mà tìm cách thoả mãn nhu cầu quần chúng”.

 

doc7 trang | Chia sẻ: tuongvi | Lượt xem: 2200 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Nội dung học tập năm 2013 về phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương của chủ tịch Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nội dung học tập chuyên đề năm 2013 về phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Tài liệu phục vụ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt nhân dân)
Thực hiện Hướng dẫn số 71-HD/BTGTW, ngày 22/01/2013 của Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy biên tập tài liệu học tập chuyên đề năm 2013 “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương; nêu cao trách nhiệm gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp” phục vụ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt nhân dân ở cơ sở. 
1. Quan niệm về phong cách Hồ Chí Minh
Phong cách Hồ Chí Minh là những đặc trưng giá trị mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, thể hiện xuyên suốt mọi hành động trong cả cuộc đời cách mạng, phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân của Người; bao gồm: phong cách tư duy, phong cách làm việc (phong cách quần chúng, phong cách dân chủ, phong cách nêu gương), phong cách ứng xử, phong cách diễn đạt, phong cách sinh hoạt… 
Phong cách Hồ Chí Minh là phong cách của người Việt Nam. Đó là phong cách của một con người với nhân cách siêu việt, cái Tâm trong sáng, cái Đức cao đẹp, cái Trí minh mẫn, cái Hành mực thước, phong cách của một lãnh tụ, một vĩ nhân, một chiến sĩ cộng sản chân chính. Đó còn là phong cách của người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất. Phong cách Hồ Chí Minh không phải để cho người đời ca ngợi, sùng bái mà là tấm gương để mọi người noi theo, học tập. Không phải chỉ người Việt Nam, từ lao động chân tay đến lao động trí óc, từ già đến trẻ, từ miền xuôi đến miền ngược, từ người tu hành đến các chính khách, thương gia đều tìm thấy ở Hồ Chí Minh phong cách của chính mình, mà cả người nước ngoài ở phương Đông hay ở phương Tây cũng cảm thấy gần gũi, không xa lạ với phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt, phong cách của Người không chỉ là bài học, là chuẩn mực cho việc xây dựng phong cách người cán bộ cách mạng mà còn bồi dưỡng nhân cách cho các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau.
2. Phong cách quần chúng, dân chủ và nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh: là 3 mặt gắn kết chặt chẽ, mật thiết với nhau, thể hiện hài hòa ở phong cách làm việc, sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương là toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, vì nước, vì dân mà hy sinh quên mình.
2.1- Phong cách quần chúng (sâu sát, gần gũi, lắng nghe, tôn trọng quần chúng, học hỏi quần chúng, chú trọng làm gương...); 
- Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có lòng tin vô tận đối với quần chúng. Người luôn luôn chăm lo tăng cường mối liên hệ với quần chúng, coi đó là nguồn sức mạnh tạo nên mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Người nhìn thấy sức mạnh của quần chúng nhân dân không chỉ đơn thuần là sức mạnh chính trị mà còn là chiều sâu của tư tưởng nhân văn: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”.
- Phong cách quần chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự thấm nhuần sâu sắc quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin: Quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; được thể hiện bằng phong cách: sâu sát quần chúng, vì lợi ích của quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng và suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. 
+ Phong cách quần chúng là phải đi sâu, đi sát quần chúng, gần gũi, gắn bó với nhân dân; trong quan niệm của Bác Hồ, là muốn chăm lo được cho nhân dân thì phải nắm được dân tình, phải hiểu thấu dân tâm, phải biết được dân cần gì, dân thiếu cái gì, dân khổ cái gì. Bác nói: “Đi vào trong quần chúng, hiểu quần chúng, để biết được họ thiếu cái gì, cần cái gì, để rồi từ đó mà tìm cách thoả mãn nhu cầu quần chúng”. 
+ Phong cách quần chúng tức là bao giờ cũng biết đặt lợi ích của quần chúng, của nhân dân lên trên hết, lên trước hết, cao hơn lợi ích của cá nhân mình, sẵn sàng hy sinh lợi ích của cá nhân vì lợi ích của nhân dân. Yêu nước, thương dân, suốt đời vì dân, vì nước là suy nghĩ nhất quán, thường trực trong con người Hồ Chí Minh, đã thể hiện, bộc lộ ra bên ngoài bằng phong cách quần chúng ở Người. 
+ Phong cách quần chúng là phải biết chăm lo cho quần chúng, cả về vật chất và tinh thần. Theo Bác: chăm lo cho quần chúng đối với Đảng ta, đối với cán bộ, đảng viên là “phải biết đem tài của dân, sức của dân để tự làm lợi cho dân”; do đó, Đảng muốn hướng dẫn được thì Đảng phải có phong cách quần chúng.
+ Phong cách quần chúng là biết cách tổ chức quần chúng, mà muốn tổ chức quần chúng thì phải luôn sâu sát, quan hệ mật thiết với quần chúng, nắm bắt sâu sắc tình hình thực tế, nhất là thực tế đời sống, thực tế tâm lý, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, đời sống tinh thần, phong tục tập quán… của quần chúng thì mới tổ chức được họ. Trên cơ sở nắm bắt được nhu cầu nguyện vọng của quần chúng nhân dân, nắm sát thực tế, gần gũi với cuộc sống để biết cách tổ chức, biết cách giáo dục, động viên, đoàn kết quần chúng thành sức mạnh.
2.2- Phong cách dân chủ (tôn trọng tập thể, tranh thủ, phát huy ý kiến, sáng tạo của nhiều người, không áp đặt, độc đoán chuyên quyền...); 
- Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất quý trọng dân chủ, trân trọng dân chủ, coi dân chủ là một giá trị của sự phát triển xã hội, của một sự tiến bộ xã hội, Người nói: “Dân chủ là của cải quý báu nhất của nhân dân, thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn”.
- Phong cách dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh (từ thực hành dân chủ cho nhân dân, đến thực hành dân chủ trong Đảng, trong cơ quan, tổ chức) là sự thể hiện nhất quán của tư tưởng, đạo đức vì Dân, vì Nước. Người khẳng định 5 điểm đạo đức mà người đảng viên phải giữ gìn cho đúng, đó là: (1) Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân; (2) Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng; (3) Trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu; (4) Trong hoàn cảnh nào, cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết; (5) Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. 
- Dân chủ Hồ Chí Minh là dân chủ quần chúng. Quần chúng là nguồn gốc, là mục đích của phong cách dân chủ Hồ Chí Minh. Người quan niệm cái gì có lợi cho nhân dân, cho dân tộc là chân lý, và Người xem phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý; làm công bộc cho dân là một việc làm cao thượng. Vì lẽ đó, cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là một tấm gương mẫu mực về gần dân, hiểu dân, kính trọng, phục vụ nhân dân. Người nói: “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn căn dặn cán bộ rằng: quần chúng nhân dân là người làm ra lịch sử, làm nên thành công của cách mạng, là người chủ đất nước; mỗi đảng viên, cán bộ ở bất cứ cương vị nào, làm công việc gì đều phải “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
- Bản chất dân chủ Hồ Chí Minh, trước hết là tình thương yêu bao la và niềm tin tưởng vô tận đối với quần chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với quần chúng một cách tự nhiên, bình dị với nụ cười hiền hậu, giọng nói ấm áp và vòng tay rộng mở thể hiện lòng nhân ái bao la, sự quan tâm, tôn trọng, đồng cảm đến mức thấu cảm - hòa đồng với họ. 
- Dựa vào quần chúng để lãnh đạo, quản lý, nhằm phục vụ lợi ích quần chúng là đặc trưng cơ bản, thể hiện đặc trưng bản chất của phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh. Trong hoạt động cách mạng cũng như trong cuộc sống đời thường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh và sự sáng tạo vô cùng to lớn của nhân dân. Người từng nói: Dân ta rất thông minh, biết giải quyết mọi công việc một cách nhanh chóng mà nhiều cán bộ nghĩ mãi không ra, “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”. Đó là sự tổng kết thực tiễn cách mạng rất sâu sắc: Phải không ngừng học dân. Có gần dân, gắn bó mật thiết với nhân dân mới hiểu được rằng: “Nhân dân ta rất cần cù, thông minh và khéo léo. Trong sản xuất và trong sinh hoạt, họ có rất nhiều kinh nghiệm quý báu”. Vì vậy, Người khuyên cán bộ, đảng viên “cần tham gia tổng kết những kinh nghiệm quý báu ấy”
- Dân chủ Hồ Chí Minh là dân chủ có sự lãnh đạo của Đảng. Khi đề ra đường lối, chính sách, giải quyết nhiệm vụ chính trị, theo Hồ Chí Minh, cần phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng, phải dùng kinh nghiệm dân chúng để thêm cho kinh nghiệm của mình. Tuy nhiên, dân chủ của quần chúng nhân dân, theo Người, phải có sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, thống nhất của Đảng theo nguyên tắc dân chủ tập trung; tập thể lãnh đạo phải luôn đi đôi với cá nhân phụ trách .
+ Phong cách dân chủ, phải gắn với vai trò chịu trách nhiệm của cá nhân. Dân chủ càng rộng rãi, thì trách nhiệm của cá nhân càng lớn, càng tập trung; trách nhiệm cá nhân phải thể hiện được bản lĩnh dám làm, dám chịu trách nhiệm, chứ không đùn đẩy cho tập thể, không đùn đẩy cho số đông, người đề ra quyết định phải chịu trách nhiệm với những quyết định của mình.
+ Phong cách dân chủ bao giờ cũng phải đi liền với kỷ luật, kỷ cương. Quyền của dân bao giờ cũng phải gắn với nghĩa vụ của dân, hai mặt này không thể tách rời. Đối với cán bộ, đảng viên cũng vậy, dân chủ trong Đảng, tức là đảng viên có quyền, nhưng mà phải nghiêm túc thực hành kỷ luật Đảng; thực hiện nghiêm túc kỷ luật Đảng cũng là đạo đức của người đảng viên. Người nói: “Trong chế độ Dân chủ cộng hòa thì pháp luật đi liền với kỷ cương pháp chế, người có công thì được trọng thưởng, người có tội thì phải trừng trị”. 
- Dân chủ Hồ Chí Minh là dân chủ có tư duy, có trí tuệ. Dân chủ có tư duy, trí tuệ là nét đặc sắc, độc đáo làm nên diện mạo của phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh.
2.3- Phong cách nêu gương 
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết phải làm gương trong mọi công việc từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên, về mọi mặt; phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; nói phải đi đôi với làm. Cần nêu gương trên cả ba mối quan hệ: đối với mình, đối với người, đối với việc. 
+ Đối với mình: phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo mà luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân, phải tự phê bình mình như rửa mặt hằng ngày; 
+ Đối với người: luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, khoan dung, độ lượng; thật thà, không dối trá, lừa lọc; 
+ Đối với việc: dù trong hoàn cảnh nào phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng”, (để việc công lên trên, lên trước việc tư). 
- Chủ tịch Hồ Chí Minh không những làm gương mà Người còn rất chú trọng nêu gương, nêu gương tức là gương người khác, thực hành tức là mình làm gương, còn nêu gương là phát hiện, chú trọng, xây dựng điển hình để nhân rộng ra trong đời sống xã hội. 
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về thực hành tiết kiệm, giữ liêm khiết, trong sạch trở thành phong cách riêng của Người ở mọi lúc, mọi nơi. Người sống trung thực, chân thành với chính mình và với người khác.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương đấu tranh không mệt mỏi chống lại cái ác, cái xấu trong xã hội, trong mỗi con người, chống lại biểu hiện tiêu cực, nhất là căn bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu trong bộ máy tổ chức của Đảng, Nhà nước để các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước thật sự trong sạch, đại diện cho nhân dân. 
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh có thái độ rõ ràng, công minh trước công và tội của từng cá nhân. Người viết nhiều bài báo giáo dục, cảnh tỉnh cán bộ, đảng viên không được phép làm “quan cách mạng”, phòng tránh những cám dỗ đời thường để không bị gục ngã trước những “viên đạn bọc đường”. Người đã trực tiếp chỉ đạo xét xử những vụ án lớn; phân tích thấu tình đạt lý những nguyên nhân dẫn đến lỗi lầm của cán bộ, đảng viên, trong đó có đảng viên có chức, có quyền. Người chỉ ra hậu quả kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức mà các hành vi phạm tội gây ra, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào pháp luật, vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
3- Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời vì dân, vì nước, làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân. 
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hóa thân một cách toàn vẹn và trọn vẹn vào trong nhân dân. Người thấu hiểu dân tình, chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí để không ngừng thực hành dân chủ cho nhân dân. Theo Người: trong chế độ mới, giá trị cao nhất của độc lập dân tộc là đem lại quyền làm chủ thực sự cho dân, phải trao lại cho dân mọi quyền hành. Dân là chủ, nghĩa là trong xã hội Việt Nam, nhân dân là người chủ của nước, nước là nước của dân. Các cơ quan Đảng và Nhà nước là tổ chức được dân ủy thác làm công vụ cho dân. Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tập thể, lắng nghe ý kiến của tập thể, phát huy sức mạnh của tập thể, nhận trách nhiệm cá nhân và hoàn thành tốt nhiệm vụ được tập thể giao phó và tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Theo Người, mọi cán bộ, đảng viên phải gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, đặt mình trong tập thể, lắng nghe ý kiến của tập thể, đồng thời tinh thần ấy cũng thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của Người. Hồ Chí Minh không bao giờ đặt mình cao hơn tổ chức, ở ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ chức, mà luôn luôn tranh thủ bàn bạc với tập thể Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Chính phủ và Quốc hội, khi cần thiết, triệu tập cả Hội nghị Chính trị đặc biệt - một hình thức Diên Hồng của thời đại mới - để xin ý kiến các đại biểu quốc dân. 
Triết lý sâu xa của Chủ tịch Hồ Chí Minh là, cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc đều do mồ hôi, nước mắt của dân mà ra, nên chúng ta phải đền bù xứng đáng cho dân. Cán bộ, đảng viên phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước dân cả về lời nói và việc làm; phải luôn quyết tâm, bền bỉ, chịu đựng gian khổ, quan tâm và tìm mọi cách giải quyết kịp thời, hiệu quả những nhu cầu mà dân đặt ra, kể cả chấp nhận sự hy sinh để bảo vệ dân, phấn đấu vì sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng đạo đức ấy đã tạo nên một phong cách nêu gương, tự giác gương mẫu của Hồ Chí Minh, Người suốt đời phấn đấu, hy sinh vì đất nước, vì dân tộc, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị, Người mà cả cuộc đời là một tấm gương lớn cho các thế hệ con cháu mãi mãi noi theo.
Phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương đó một lần nữa khẳng định tư tưởng, tấm gương đạo đức cao đẹp “suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 
4- Một số vấn đề cần chú ý trong học tập, liên hệ, thực hiện làm theo gương Bác về phong cách quần chúng, dân chủ và nêu gương đối với cán bộ, đảng viên ở tỉnh ta hiện nay
4.1- Tổ chức tốt việc học tập chuyên đề về phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sinh hoạt chi bộ, đoàn thể, tại các cơ quan, địa phương, đơn vị; góp phần nâng cao nhận thức, tinh thần tự giác không ngừng rèn luyện của mỗi cá nhân để hoàn thiện về phẩm chất và nhân cách của mình. Qua học tập và liên hệ, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức cần phải quán triệt tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách dân chủ, quần chúng và nêu gương của Bác, đó là: 
+ Dù ở bất cứ cương vị nào, phải gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Phải trăn trở và thấy trách nhiệm của mình khi dân còn nghèo, đói. Không chỉ sẻ chia và đồng cam, cộng khổ với nhân dân, mà còn phải biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của nhân dân, tổ chức, động viên, lãnh đạo nhân dân thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nhân dân là người thầy nghiêm khắc và nhân ái, luôn luôn đòi hỏi cao ở cán bộ, đảng viên, đồng thời cũng sẵn lòng giúp đỡ cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, phát huy ưu điểm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm trong công tác, trong quan hệ cụ thể hằng ngày với nhân dân.
+ Phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ cương của xã hội. Mọi biểu hiện dân chủ hình thức, hay ngược lại, dân chủ quá trớn, lợi dụng dân chủ để “kéo bè, kéo cánh”, làm rối loạn kỷ cương, để cầu danh, trục lợi, hoặc chuyên quyền, độc đoán, đứng trên tập thể, đứng trên pháp luật, làm cho nhân dân bất bình, cần phải bị lên án và loại bỏ. 
+ Phát huy vai trò nêu gương trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là về phong cách quần chúng, dân chủ, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
4.2- Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tự giác liên hệ, đăng ký thực hiện sổ tay “Làm theo gương Bác”, nhất là về phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương với những việc làm cụ thể, thiết thực. Tập trung vào các nội dung: 
+ Nói phải đi đôi với làm, khắc phục tình trạng “nói mà không làm”, “nói hay nhưng làm dở”, “nói người nhưng mình không làm”… 
+ Đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thực hiện đường lối quần chúng “gần dân, học dân, gắn bó với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, thực hiện được nhiệm vụ của người cán bộ, đảng viên “nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, đảm bảo dân sinh, nâng cao dân trí”.
+ Cụ thể hóa thái độ tận tụy, trung thành phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân thành các nhiệm vụ trên từng vị trí công tác, từng loại công việc, làm tốt công việc hàng ngày, nhất là những việc liên quan tới đời sống của người dân.
4.3- Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tập trung vào các nội dung:
+ Tác phong sâu sát thực tế, gần gũi để thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân. 
+ Nêu cao ý thức phục vụ nhân dân; làm việc với thái độ khách quan, công tâm, tập trung sức giải quyết những lợi ích chính đáng của nhân dân; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, chủ động đối thoại với nhân dân và cán bộ dưới quyền. 
+ Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện vô cảm, quan liêu, cửa quyền, hách dịch và các hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà nhân dân. 
 + Nghiêm túc khắc phục những khuyết điểm trong phong cách làm việc, phong cách sống, lối sống, thói quen làm việc, thói quen sinh hoạt... làm ảnh hưởng đến tổ chức, cơ quan, đơn vị cũng như đối với người khác. Trong công việc, người cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải nêu gương, thể hiện rõ thái độ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể và cấp dưới, biết tự chỉ trích để tiến bộ. 
+ Đề cao tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, tính kỷ luật, dân chủ trong tập thể, tinh thần đó phải luôn thể hiện đối với cấp dưới, với quần chúng nhân dân; 
+ Có ý thức trau dồi phẩm chất chính trị, tư tưởng, phải thật sự là công bộc của dân, có quan hệ mật thiết với quần chúng nhân dân; 
4.4- Đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân về những tập thể, cá nhân “Người tốt, việc tốt làm theo gương Bác”, nhằm động viên những nhân tố tích cực, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ từ các điển hình, tạo ra không khí phấn khởi, nhân rộng những điển hình tiên tiến, động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân thi đua học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trong đó có việc học tập và làm theo phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương của Người.

File đính kèm:

  • docCHUYÊN ĐỀ NĂM 2013 VỀ HỌC TẬP VÀ LÀM THEO.doc
Giáo án liên quan