Chuyên đề Những giải pháp nhằm đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực
Đặt câu hỏi là phương pháp rất quan trọng. Nếu không sử dụng phương pháp này, không thể làm cho học sinh thực sự hiểu bài và trang bị cho các em các kỹ năng tư duy cấp cao. Phương pháp này dạy cho học sinh cách suy nghĩ, tự lực và giúp các em học có chất lượng cao và có thể vận dụng được. Nó cho phép học sinh thực hành các khái niệm và quy tắc các em được học đồng thời nó cũng tạo cơ hội cho chính chúng ta – người giáo viên – kiểm tra và sửa lỗi ngay tại chỗ. Phương pháp này cũng cung cấp cho giáo viên thông tin phản hồi để biết được học sinh có hiểu bài hay không.
Học sinh thường nhận thấy hỏi và trả lời là một hoạt động thú vị và sôi nổi, đặc biệt là khi trả lời đúng, các em sẽ tự tin hơn rất nhiều và có cảm giác thành công. Ngay cả khi những học sinh không được gọi trả lời cũng thấy tự tin hơn nếu các em cũng nghĩ được câu trả lời đúng. Cảm giác tự tin, thành công này, cùng với những lời khen ngợi và tán thưởng của giáo viên sẽ cổ vũ các em rất nhiều. Tuy nhiên, ban đầu thì phương pháp hỏi còn là một kỹ thuật xa lạ với hầu hết chúng ta, sau ít thời gian thực hành, ta sẽ thấy hoàn toàn tự nhiên.
n. - Tác dụng đối với học sinh Học sinh tích cực tham gia vào các họat động học tập như suy nghĩ để giải bài tập, thảo luận, phát biểu để tìm kiếm tri thức. Thúc đẩy sự tương tác : học sinh với giáo viên, học sinh với học sinh. - Cách thức dạy học Giáo viên tạo ra sự tương tác giữa học sinh với học sinh làm cho giờ học không bị đơn điệu. Nếu có học sinh chưa rõ câu hỏi, giáo viên cần chỉ định học sinh khác nhắc lại câu hỏi. Câu hỏi phải dễ hiểu, phù hợp với trình độ học sinh, với nội dung kiến thức bài học. Đối với các câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời về những kiến thức mới, thì những kiến thức đó phải có mối liên hệ với những kiến thức cũ mà học sinh đã được học hoặc tiếp thu được từ thực tế cuộc sống. 10. TRÁNH NHẮC LẠI CÂU TRẢ LỜI CỦA HỌC SINH - Mục tiêu Phát triển mô hình có sự tương tác giữa học sinh với học sinh, tăng cường tính độc lập của học sinh. Giảm thời gian nói của giáo viên. - Tác dụng đối với học sinh Phát triển khả năng tham gia vào họat động thảo luận và nhận xét các câu trả lời của nhau. Thúc đẩy học sinh tự tìm ra câu trả lời hoàn chỉnh. - Cách thức dạy học Để đánh giá được câu trả lời của học sinh đúng hay chưa đúng, giáo viên nên chỉ định các học sinh khác nhận xét về câu trả lời của bạn, sau đó giáo viên hãy kết luận. V. Giúp học sinh suy nghĩ trong giờ học Khi tham gia tích cực vào bài học trên lớp, học sinh sẽ hiểu bài sâu hơn, nắm bài vững hơn và nhớ lâu hơn. Chính vì vậy việc giúp học sinh tập trung và hăng hái xây dựng bài là một việc làm rất quan trọng của giáo viên. Trong bài viết dưới đây chúng tôi muốn đưa ra cho các bạn tham khảo một số phương pháp giúp học sinh liên tục suy nghĩ trong giờ lên lớp của bạn. Luôn bắt đầu giờ học bằng một câu hỏi Để giới thiệu chủ đề mới của bài học trước tiên bạn nên kiểm tra nhận thức của học viên về chủ đề đó bằng cách yêu cầu học viên tự mình trả lời thật nhanh một vài câu hỏi, kết hợp với so sánh theo cặp hoặc trong nhóm. Khi học sinh đặt câu hỏi hãy để cho học sinh khác trả lời trước khi bạn đưa ra đáp án. Liên tục đặt những câu hỏi trong suốt giờ học, như vậy buổi học mới thực sự trở thành một cuộc đàm thoại. Việc đặt câu hỏi cho học sinh và yêu cầu họ giơ tay phát biểu dễ dàng hơn nhiều là yêu cầu họ nói. Những câu hỏi thú vị với một đáp án bất ngờ sẽ có tác dụng rất lớn trong việc thu hút sự chú ý của học sinh. Nhìn chung những câu hỏi trong giờ học mang lại hiệu quả cao trong việc khơi dậy suy nghĩ của học sinh nếu bạn không luôn luôn tìm kiếm một câu trả lời hoàn hảo. Câu hỏi hay nhất là câu hỏi khiến học sinh suy nghĩ nhiều nhất. Trong khi giảng bài, giáo viên nên nhấn mạnh những điểm quan trọng. Đưa ra cho học sinh một câu hỏi với một số lựa chọn dựa trên những kiến thức mà bạn đã giảng. Yêu cầu học sinh chọn một đáp án thích hợp, sau đó thảo luận với nhóm của mình và phải thuyết phục làm sao để cả nhóm đồng ý với đáp án đó. Khi đã hết thời gian thảo luận, yêu cầu các nhóm quyết định lại một lần nữa việc lựa chọn đáp án. Thường là có nhiều học sinh tìm ra được đáp án đúng khi xem lại lần thứ hai. Dành thời gian cho những câu hỏi cuối mỗi giờ học. Giáo viên nên hỏi học sinh xem có vấn đề gì mà các em còn chưa hiểu rõ hay không. Nếu có gì thắc mắc, các em có thể giơ tay phát biểu để đặt câu hỏi. Cuối buổi học giáo viên nên có một bài kiểm tra một phút. Trong bài kiểm tra này, giáo viên yêu cầu học sinh trả lời hai câu hỏi: a) Vấn đề quan trọng nhất trong giờ học là gì? b) Kết thúc buổi học các em có câu hỏi gì về nội dung bài học hay không? Sau một phút hãy thu lại tất cả bài làm của học sinh và đọc một cách cẩn thận. Bạn hoàn toàn có thể sử dụng một vài câu hỏi trong đó cho buổi học sau. Thủ thuật này sẽ khuyến khích học sinh chú ý lắng nghe bài giảng hơn, xem lại vở ghi của chúng và nghĩ lại về bài học trước khi bước vào một giờ học mới. Như vậy tác dụng của những câu hỏi trong bài giảng là rất lớn. Các bạn nên sử dụng triệt để các dạng câu hỏi khác nhau để giúp học sinh tham gia giờ học một cách tích cực và hăng hái nhất. VI. Đặt câu hỏi trong giảng dạy A. NHỮNG CÁI “KHÔNG” KHI ĐẶT CÂU HỎI 1. Không nên đặt các câu hỏi đúng-sai hay các câu hỏi cho phép cơ hội 50% đúng và 50% sai. Ví dụ: “Có phải Orwell viết Animal Farm không?”, “Ai thắng trong cuộc nội chiến?” Các kiểu câu hỏi này khuyến khích sự suy đoán, tư duy tức thì, và định hướng đúng sai, không phải tư duy khái niệm hay giải quyết vấn đề. Nếu giáo viên vô tình hỏi kiểu câu hỏi này thì họ phải hỏi ngay lập tức các câu hỏi khác như “tại sao” hay “như thế nào”. 2. Không đặt những câu hỏi mập mờ hay không xác định: “Các thành phố chính của nước Mỹ là gì?”. Những câu hỏi như vậy dễ nhầm lẫn và thường phải được nhắc lại hay tinh giản. Câu hỏi phải rõ ràng và phù hợp với dự định của giáo viên. 3. Không đặt các câu hỏi suy đoán. Các câu hỏi suy đoán có thể cũng là những câu hỏi có/không, những câu hỏi không xác định hay mơ hồ. Nên yêu cầu người học giải thích ý nghĩa và chỉ ra các mối liên hệ, chứ không đi tìm những thông tin chi tiết và vụn vặn. 4. Không đặt các câu hỏi kép hay câu hỏi đa diện. Ví dụ: “công thức hoá học của muối là gì?” “Khối lượng phân tử của nó là bao nhiêu?” Trước khi người học có thể trả lời câu hỏi thứ nhất, thì câu hỏi thứ hai lại được hỏi. Kết quả là người học không biết câu hỏi nào giáo viên muốn họ trả lời. 5. Không đặt những câu hỏi gợi ý hay dẫn dắt. Ví dụ: “Tại sao Andrew Jackson là một tổng thống vĩ đại?” Câu hỏi thực sự cần đến một quan điểm, nhưng quan điểm hay sự xét đoán đã được nhận định. 6. Không hỏi những câu rườm rà. Ví dụ: “Trong mối liên hệ với các yếu tố ô nhiễm và các tia nắng mặt trời, chúng ta có thể đi đến kết luận gì về mức nước trong tương lai?” “Manifest Destiny dẫn đến chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân như thế nào trong khi tăng cường công nghiệp hoá đất nước?” Những câu hỏi này đa chiều, không xác định, và dài dòng. Tỉa tót lời khi hỏi, sử dụng từ vựng đơn giản, không quá trang trọng hay tối nghĩa, hỏi những câu hỏi rõ ràng, đơn lẻ để tránh việc che lấp ý nghĩa trong câu hỏi của bạn và làm cho người học nhầm lẫn. 7. Không hỏi những câu hỏi giật cục. Ví dụ: “Còn gì nữa? Còn ai nữa”. Những câu hỏi này không thực sự khuyết khích tư duy của người học. 8. Không tập trung câu hỏi cho một người. Bạn có thể giúp một người học bằng cách đặt một loạt những câu hỏi để lấy thông tin. Tuy nhiên, điều này phải được phân biệt với việc hỏi người học khá nhiều câu hỏi, đồng thời lại lãng quên những người học khác. 9. Không gọi tên người học trước khi đặt câu hỏi. Ngay sau khi người học biết rằng một người nào khác chịu trách nhiệm trả lời câu hỏi thì sự tập trung của họ bị giảm. Trước hết hãy đặt câu hỏi, sau đó dừng lại để người học hiểu và rồi mới gọi một ai đó trả lời. 10. Không trả lời câu hỏi của một học viên nếu mọi học viên phải biết câu trả lời. Hãy chuyển câu hỏi trở lại lớp và hỏi: “Ai có thể trả lời câu hỏi này?”. 11. Không nên nhắc lại câu hỏi hay câu trả lời của học viên. Nhắc lại sẽ tạo ra thói quen làm việc tồi và không chú ý. 12. Không “bóc lột” những học viên giỏi hay những học viên xung phong. Những học viên khác trong lớp sẽ không chú ý và xao nhãng hoạt động chung đang diễn ra. B. NHỮNG ĐIỀU NÊN LÀM KHI HỎI 1. Hỏi những câu hỏi thực sự khuyến khích và không chỉ thuần tuý kiểm tra trí nhớ. Một giáo viên tốt biết cách khuấy động hứng thú của người học và buộc họ phải suy nghĩ bằng các câu hỏi gợi tư duy. Các câu hỏi yêu cầu nhớ lại thông tin sẽ không duy trì được sự chú ý của lớp học. 2. Đặt những câu hỏi tương xứng với khả năng của người học. Các câu hỏi quá thấp hay quá cao đối với khả năng của người học sẽ làm cho họ chán hay nhầm lẫn. Nên đưa ra các câu hỏi phù hợp với mức khả năng của đa số học viên. 3. Đặt các câu hỏi phù hợp với người học. Các câu hỏi dựa vào cuộc sống của người học là các câu hỏi phù hợp. 4. Đặt các câu hỏi theo trình tự. Câu hỏi và câu trả lời phải được sử dụng làm nền cho các câu hỏi tiếp theo. Việc làm này đóng góp vào việc học liên tục. 5. Đa dạng hoá độ dài và độ khó của câu hỏi. Câu hỏi phải được đa dạng hoá để cả học sinh giỏi lẫn học sinh yếu đều có thể tham gia trả lời. Quan sát những khác biệt về cá nhân, và giải thích câu hỏi để mọi học sinh đều tham gia vào cuộc thảo luận. 6. Đặt các câu hỏi rõ rang và đơn giản, câu hỏi phải hiểu được dễ dàng, tránh dài dòng văn tự. 7. Khuyến khích học viên đặt câu hỏi cho nhau và cho nhận xét. Việc làm này giúp cho người học trở nên tích cực hơn và hợp tác tốt hơn. Câu hỏi hay khuyến khích các câu hỏi khác, thậm chí là các câu hỏi của người học. 8. Cho phép đủ thời gian để suy nghĩ. Dừng lại vài giây cho đến khi một số cánh tay giơ lên để tạo cho mọi học sinh, đặc biệt là học sinh kém, có cơ hội suy nghĩ về câu hỏi. 9. Tiếp tục với những câu trả lời không đúng. Tận dụng thế lợi của những câu trả lời không đúng hay gần đúng. Khuyến khích học sinh suy nghĩ về câu trả lời. 10. Tiếp tục với những câu trả lời đúng. Sử dụng những câu trả lời đúng để dẫn dắt câu trả lời khác. Câu trả lời đúng đôi khi cần phải chi tiết hoá và có thể được dùng để khuyến khích học sinh thảo luận. 11. Gọi cả học sinh xung phong và không xung phong. Một số học sinh xấu hổ và cần sự động viên của giáo viên. Những học sinh có xu hương xao nhãng cần sự hỗ trợ của giáo viên để chú ý hơn đến bài học. Phân bố các câu hỏi đều trong lớp học để mọi học sinh đều có thể tham gia được. 12. Gọi những học sinh không chú ý. Việc làm này sẽ chấm dứt được tình trạng có những học sinh không làm bài hoặc không tham gia vào các hoạt động của lớp. 13. Tóm tắt bài học dưới hình thức các câu hỏi, hoặc dưới hình thức một vấn đề để khuyến khích toàn lớp phải suy nghĩ. 14. Thay đổi vị trí của bạn và di chuyển quanh lớp học để tạo ra sự tương tác với người học và hạn chế sự xao nhãng và những hiện tượng vô kỷ luật trong người học. VII. Một số suy nghĩ về cách đặt câu hỏi trong giờ học Đặt câu hỏi là phương pháp rất quan trọng. Nếu không sử dụng phương pháp này, không thể làm cho học sinh thực sự hiểu bài và trang bị cho các em các kỹ năng tư duy cấp cao. Phương pháp này dạy cho học sinh cách suy nghĩ, tự lực và giúp các em học có chất lượng cao và có thể vận dụng được. Nó cho phép học sinh thực hành các khái niệm và quy tắc các em được học đồng thời nó cũng tạo cơ hội cho chính chúng ta – người giáo viên – kiểm tra và sửa lỗi ngay tại chỗ. Phương pháp này cũng cung cấp cho giáo viên thông tin phản hồi để biết được học sinh có hiểu bài hay không. Học sinh thường nhận thấy hỏi và trả lời là một hoạt động thú vị và sôi nổi, đặc biệt là khi trả lời đúng, các em sẽ tự tin hơn rất nhiều và có cảm giác thành công. Ngay cả khi những học sinh không được gọi trả lời cũng thấy tự tin hơn nếu các em cũng nghĩ được câu trả lời đúng. Cảm giác tự tin, thành công này, cùng với những lời khen ngợi và tán thưởng của giáo viên sẽ cổ vũ các em rất nhiều. Tuy nhiên, ban đầu thì phương pháp hỏi còn là một kỹ thuật xa lạ với hầu hết chúng ta, sau ít thời gian thực hành, ta sẽ thấy hoàn toàn tự nhiên. Hầu hết các giáo viên có kinh nghiệm đều sử dụng rất nhiều kỹ thuật đặt câu hỏi khi giảng trên lớp và tại nhóm, cũng như khi giảng bài cho từng cá nhân học sinh. Tất nhiên câu hỏi được sử dụng dưới cả hình thức nói lẫn viết; trong bài này chúng tôi muốn tập trung phân tích vào các câu hỏi dạng nói của giáo viên. Nhiều chuyên gia giáo dục, kể cả các giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh và có kinh nghiệm đều xem kỹ thuật đặt câu hỏi là một trong những công cụ đắc lực của người giáo viên. Một câu hỏi mà rất nhiều nhà quản lý giáo dục cũng như các giáo viên đang trực tiếp giảng dạy quan tâm đó là: Chúng ta sử dụng kỹ thuật đặt câu hỏi như thế nào? Câu trả lời rất đơn giản: Kỹ thuật đặt câu hỏi tốt là phải khuyến khích tất cả học sinh trong lớp suy nghĩ, cần tránh bầu không khí căng thẳng và cần cho học sinh cơ hội nhận được những phản hồi tích cực chứng tỏ các em hiểu bài. Sau khi đặt câu hỏi, dừng lại đôi chút; hầu hết học sinh cần phải động não suy nghĩ câu trả lời. Khi mà các em có đủ thời gian suy nghĩ, hãy yêu cầu một em nêu câu trả lời. Nếu bạn chỉ định một học sinh trả lời trước khi đặt câu hỏi, các em khác sẽ không tích cực suy nghĩ. Qua kinh nghiệm của nhiều nhà giáo cho thấy: “hãy dừng lại”, bạn dừng lại càng lâu, học sinh càng phải suy nghĩ nhiều và đương nhiên câu trả lời của các em sẽ dài hơn. Khuyến khích các em trả lời bằng cách hỏi bắt đầu từ những câu đơn giản, đặc biệt đây là nhóm học sinh mới hay những em có khả năng tiếp thu không tốt. Hãy tỏ ra hài lòng với câu trả lời của các em và luôn luôn khen ngợi những câu trả lời đúng. Nếu học sinh trả lời mà lại nói rất khẽ, hãy nhắc lại câu trả lời đó cho cả lớp biết. Vậy bạn sẽ xử trí như thế nào với các câu trả lời không đúng? Không nên chê bai câu trả lời không đúng đó mà thay vào đó, hãy cố gắng giải thích lý do có thể dẫn đến câu trả lời đúng. Nếu câu trả lời bị sai, ta nên nêu ra lý do tại sao lại sai (mà không vứt bỏ câu trả lời này), sau đó đặt câu hỏi khác để đưa học sinh trở lại đúng hướng. Rất nên sử dụng những câu trả lời sai để uốn nắn những chỗ học sinh hiểu sai – đây là một lý luận rất cơ bản đối với phương pháp dạy học theo quan điểm kiến tạo – sẽ được trình bày trong những số sau. Kinh nghiệm cho thấy cần phải luyện nhiều mới có được kỹ năng đặt câu hỏi ở mức này. Nhưng trước sau gì thì ta cũng sẽ đạt được và bạn sẽ thích thú phương pháp chất vấn. Kỹ thuật dẫn dắt học sinh qua các bước lập luận có thể được sử dụng nếu học sinh không hoàn toàn trả lời được câu hỏi. Sau đây là phản ứng của một giáo viên dạy lái xe đối với lỗi mà học sinh mắc phải – điều mà chúng tôi đã gặp trong thực tế và phải suy nghĩ. Bạn hãy nghiên cứu kỹ cách xử lý của người giáo viên ấy. Nếu được bạn hãy lấy giấy che phần hội thoại dưới đây và chỉ để lộ từng dòng một, đồng thời bạn hãy suy nghĩ những câu hỏi mà giáo viên có thể hỏi trước khi so nó với câu hỏi mà người giáo viên này đã hỏi. - Giáo viên: Vừa rồi hình như em nháy xi nhan quá sớm đấy. Giả dụ nếu muốn rẽ phải, em phải nháy xi nhan từ lúc nào? - Học viên: (không trả lời). - Giáo viên: Em có thể nháy đèn xi nhan phải thật sớm không? - Học viên: Em không rõ em nghĩ có thể được. - Giáo viên: Điều gì sẽ xẩy ra nếu em nháy xi nhan cả hàng km trước khi đến chỗ rẽ ở chỗ đông người như trung tâm thành phố chẳng hạn? - Học viên: Các xe khác sẽ tưởng là em đang rẽ phải, trước khi em thực sự rẽ. - Giáo viên: Đúng rồi, vậy em sẽ bắt đầu nháy xi nhan khi nào nếu quanh đó có nhiều chỗ rẽ? - Học viên: Sau khi vừa qua chỗ rẽ cuối cùng? - Giáo viên: Đúng. Rất tốt! Qua mẩu hội thoại này ta thấy, người học viên sẽ cảm thấy tự tin hơn khi giáo viên cười hay có lời khen – điều rất cần trong giáo dục. Khi đặt câu hỏi cho cả lớp, hãy cố gắng phân phối câu hỏi càng rộng càng tốt: - Một em ở bàn cuối trả lời câu hỏi này nào? - Hùng nào, em cho thày (cô) và các bạn biết ý kiến của mình? - Thày (cô) muốn một bạn chưa phát biểu ý kiến trả lời câu hỏi này. Một kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng nhóm những em học sinh ở trong khu vực “tầm nhìn” của giáo viên dễ cảm thấy bị lôi cuốn vào bài giảng hơn và vì thế hay trả lời hơn. Thực tiễn cho thấy giáo viên rất dể bỏ qua những học sinh ít lời ngồi cuối lớp. Cố gắng chú ý đến các em này. Thông thường qua ngôn ngữ cử chỉ và ánh mắt mà bạn có thể gọi các em học sinh ít nói trả lời. Ví dụ hai học sinh ngồi bên trái của bạn chưa tham gia trả lời bao giờ, nếu bạn tiến lại gần và đảo mắt nhìn hai học sinh này sau khi đặt câu hỏi, rất có thể một trong hai em này cũng sẽ có câu trả lời. Đừng ngại dành quá nhiều thời gian cho học sinh suy nghĩ câu trả lời; thời gian này không phải thời gian “chết”. Hãy tươi cười trong khi đợi các em trả lời, nếu bạn lo rằng là bạn đang tạo ra quá nhiều áp lực đối với các em. Câu hỏi cần phải ngắn gọn và đơn giản – và chỉ hỏi từng câu một. Tránh những câu hỏi mơ hồ có thể dẫn đến nhiều câu trả lời đúng. Sau đây là một ví dụ: một giáo viên tiến hành thí nghiệm biểu diễn về hiện tượng cảm ứng điện từ đã đặt câu hỏi “Các em nhìn thấy gì?”. Câu hỏi này quá mơ hồ đến mức chẳng học sinh nào đủ tự tin để trả lời. Nếu câu hỏi dẫn đến hội thoại giữa bạn và một học sinh, hãy sử dụng ánh mắt và ngôn ngữ cử chỉ của bạn để liên lạc với các học sinh khác trong lớp; đưa ra lời nhận xét của bạn cho cả lớp cùng nghe, và nhắc lại câu trả lời để cả lớp cùng nghe nếu em đó nói quá khẽ. Nếu học sinh lưỡng lự khi trả lời, đảm bảo làm sao cho câu hỏi của bạn thật đơn giản và để cho học sinh có đủ thời gian để trả lời, sau đó khen ngợi hay cảm ơn câu trả lời của học sinh. Cuối cùng, dưới đây là những tổng kết, đúc rút của rất nhiều giáo viên có kinh nghiệm về danh mục các kỹ năng đặt câu hỏi: 1/ Bạn đặt câu hỏi mà học sinh có thể trả lời được? 2/ Bạn có để cho học sinh có đủ thời gian để trả lời? 3/ Bạn có sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ (ánh mắt, cười, gật đầu,) để khuyến khích học sinh trả lời? 4/ Bạn có khen ngợi hay ghi nhận (cho điểm) câu trả lời đúng của học sinh? 5/ Bạn có làm cho học sinh mắc cỡ với câu trả lời của mình? 6/ Nếu không có ai trả lời, bạn có thể đặt một câu hỏi khác đơn giản hơn nhằm gợi mở cách trả lời cho câu hỏi ban đầu? 7/ Câu hỏi của bạn ngắn gọn và rõ ràng, sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu? 8/ Bạn có tránh được việc chuyên sử dụng câu hỏi ghi nhớ? 9/ Bạn có thể phân phối câu hỏi đều khắp lớp? VIII. Mẫu câu hỏi theo các mức độ nhận thức 1. Câu hỏi Biết Ứng với mức độ lĩnh hội 1 "nhận biết" Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra trí nhớ của Hs về các dữ liệu, số liệu, các định nghĩa, tên tuổi, địa điểm,... Việc trả lời các CH này giúp Hs ôn lại được những gì đã học, đã đọc hoặc đã trải qua. Các từ để hỏi thường là: CÁI GÌ... BAO NHIÊU... HÃY ĐỊNH NGHĨA... CÁI NÀO... EM BIẾT NHỮNG GÌ VỀ... KHI NÀO... BAO GIỜ... HÃY MÔ TẢ... Ví dụ: Hãy phát biểu định nghĩa chuyển động cơ học hoặc hãy liệt kê một số vật liệu thường dùng để chống ô nhiễm tiếng ồn. 2. Câu hỏi Hiểu Ứng với mức độ lĩnh hội 2 "thông hiểu" Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra cách Hs liên hệ, kết nối các dữ liệu, số liệu, tên tuổi, địa điểm, các định nghĩa Việc trả lời các câu hỏi này cho thấy Hs có khả năng diễn tả bằng lời nói, nêu ra được các yếu tố cơ bản hoặc so sánh các yếu tố cơ bản trong nội dung đang học. Các cụm từ để hỏi thường là: TẠI SAO..., HÃY PHÂN TÍCH..., HÃY SO SÁNH..., HÃY LIÊN HỆ..., Ví dụ: Hãy tính vận tốc của vật khi biết cụ thể độ dài quãng đường đi được và thời gian để đi hết quãng đường đó Hãy xác định giới hạn đo và chia nhỏ nhất của bình chia độ. 3. Câu hỏi Vận dụng Ứng với mức độ lĩnh hội 3 "vận dụng" Mục tiêu của loại câu hỏi là để kiểm tra khả năng áp dụng các dữ liệu, các khái niệm, các quy luật, các phương pháp vào hoàn cảnh và điều kiện mới. Việc trả lời các câu hỏi áp dụng cho thấy Hs có khả năng hiểu được các quy luật, các khái niệm có thể lựa chọn tốt các phương án để giải quyết, vận dụng các phương án vào thực tiễn. Khi đặt câu hỏi cần tạo ra những tình huống mới khác với điều kiện đã học trong bài học Các cụm từ để hỏi thường là: LÀM THẾ NÀO..., HÃY TÍNH SỰ CHÊNH LỆCH GIỮA..., EM CÓ THỂ GIẢI QUYẾT KHÓ KHĂN VỀ NHƯ THẾ NÀO”, Ví dụ: Hãy tính vận tốc trung bình của một ô tô đi từ tỉnh A đến tỉnh B biết độ dài quãng đường đó là 150 km, ô tô khởi hành lúc 8h15’ và đến vào lúc 12h30’. Làm thế nào để sử dụng thước dài đã bị gãy đầu có vạch số 0? Làm rõ những phương pháp...........dùng cho mục đích........ Đoán nguyên nhân của..... 4. Câu hỏi Phân tích Ứng với mức độ lĩnh hội 4 "phân tích" Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra khả năng phân tích nội dung vấn đề, từ đó đi đến kết luận, tìm ra mối quan hệ hoặc chứng minh một luận điểm. Việc trả lời câu hỏi này cho thấy Hs có khả năng tìm ra được mối quan hệ mới, tự diễn giải hoặc đưa ra kết luận. Việc đặt câu hỏi phân tích đòi hỏi Hs phải giải thích được các nguyên nhân từ thực tế. Các câu hỏi phân tích thường có nhiều lời giải (thể hiện sáng tạo) Các cụm từ để hỏi thường là: TẠI SAO..., đi đến kết luận EM CÓ NHẬN XÉT GÌ VỀ..., HÃY CHỨNG MINH.... Ví dụ: Từ kết quả thí nghiệm, hãy nhận xét về mối quan hệ giữa độ lớn của lự
File đính kèm:
- Soan_giao_an_va_cach_dat_cau_hoi__vat_li_11_20150725_100901.doc