Chuyên đề Lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua bộ môn Sinh học 8

Trong cuộc sống ai cũng muốn mình khỏe mạnh, hạnh phúc nhưng không ai cũng có được điều đó. Bệnh tật, tai nạn luôn rình rập hoặc do thiếu hiểu biết hay một chút nông nổi đã mắc phải căn bệnh quái ác. Thông qua chương trình sinh học 8 giáo dục các em biết cách bảo vệ mình và quan tâm, giúp đỡ mọi người chẳng may rơi vào các hoàn cảnh ốm đau, bệnh tật hay lầm lỡ. Giáo dục các em không phân biệt đối xử, xa lánh những nạn nhân HIV, AIDS. Hãy gần gũi, thông cảm chia sẽ để nạn nhân này sống có ích trong những ngày còn lại của đời mình.

doc11 trang | Chia sẻ: tuongvi | Lượt xem: 9777 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua bộ môn Sinh học 8, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GD&ĐT DUY XUYÊN
TRƯỜNG THCS KIM ĐỒNG
CHUYÊN ĐỀ
“ LỒNG GHÉP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THÔNG QUA BỘ MÔN SINH HỌC 8”.
LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ
Trong bối cảnh hiện nay, ngành giáo dục và đào tạo đang nổ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập, nhằm phù hợp với xu thế thời đại. Tuy nhiên, chương trình đổi mới phương pháp dạy học của ngành giáo dục được coi là lấy học sinh làm trung tâm nhưng cũng chưa đáp ứng được những vấn đề liên quan đến kĩ năng sống. 
Trong nội dung chương trình sinh học ở bậc THCS, đặc biệt chương trình sinh học 8, học sinh nghiên cứu về chính bản thân mình, khám phá những điều bí ẩn của cơ thể. Một con người có sức khỏe tốt sẽ đem lại nhiều lợi ích cho cuộc sống. Từ đó trí tuệ mới được mở mang có cơ hội chiếm lĩnh khoa học và đào tạo một đội ngũ tương lai có một trí tuệ và sức khỏe vững vàng. 
 	Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua chương trình sinh học 8 là một điều hết sức quan trọng và cần thiết đặc biệt là kĩ năng liên quan đến sức khỏe, trí tuệ tinh thần, tình cảm. Vì vậy, tôi lồng ghép chương trình giáo dục kĩ năng sống vào trong giảng dạy sinh học 8.
Với mong muốn giúp học sinh tích cực và chủ động trong việc tiếp thu chủ đề này, từ đó các em có thể tự giải đáp những tò mò, thắc mắc của bản thân đồng thời có những hành trang cần thiết cho việc chăm sóc sức khỏe bản thân 
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN
 	 1. Mục tiêu giáo dục 
 Là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có tri thức, có đạo đức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu này đã được nêu trong các nghị quyết và luật giáo dục đó là giáo dục con người thành nhân trước khi thành tài.
	 2. Mục tiêu dạy học bộ môn
Môn học cơ thể người và vệ sinh là môn học nghiên cứu về cấu tạo, chức năng của các cơ quan, hệ cơ quan trong cơ thể con người và sự thống nhất của cơ thể, trong quá trình học các em nắm được cấu tạo và chức năng của các cơ quan chính trong cơ thể của mình và học sinh cũng có thể giải thích được những thắc mắc của bản thân. 
Giáo dục trí dục, kỹ năng và thái độ sống, trong đó kỹ năng và thái độ bao hàm giáo dục kỹ năng sống mà chúng ta nghiên cứu trong chuyên đề này.
	 3. Nguyên lí giáo dục
Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN 
1. Thực trạng của vấn đề
	Giáo dục kĩ năng sống đây là một trong nội dung của phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.
	Là yêu cầu, là xu hướng của xã hội hiện đại trong thế giới đang toàn cầu hóa như hiện nay.
	Thực tế việc giáo dục toàn diện cho học sinh, trong đó có kĩ năng sống ở nước ta còn hạn chế. Các trường THCS nói chung còn quan niệm dạy học là dạy kiến thức chứ chưa dạy các em thái độ, kĩ năng ứng xử trong các mối quan hệ ( với con người, với môi trường thiên nhiên,….). Hơn nữa, giáo viên bộ môn với 45 phút còn phải lo chuyển tải đầy đủ các nội dung bài dạy. Trong thời gian qua nhiệm vụ này được xem là của giáo viên chủ nhiệm. Trong khi đó giáo viên chủ nhiệm cả tuần cũng chỉ có một tiết sinh hoạt lớp. Thầy cô giáo chủ nhiệm được giao phụ trách học sinh nhưng không có thời gian nắm tình hình của từng em.
	Nhiều ý kiến cho rằng đó là một khiếm khuyết rất lớn trong giáo dục và đào tạo học sinh. Chúng ta mới chỉ nghiêng về đào tạo mà coi nhẹ phần giáo dục toàn diện cho học sinh.
	2. Sự tất yếu phải có giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THCS.
Giáo dục kĩ năng sống là giáo dục cánh sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và các kĩ năng thích hợp.
 Xã hội hiện đại luôn nảy sinh những vấn đề phức tạp và những vấn đề bất định với con người. Nếu con người không có năng lực để ứng phó vượt qua những thử thách đó và hành động theo cảm tính thì rất dễ rủi ro. Có thể hình tượng hóa vai trò của kĩ năng sống đối với con người như sau: Con người sống trong xã hội hiện đại muốn sang được bến bờ của thành công và hạnh phúc thì phải vượt qua một con sông chứa đựng đầy những rủi ro, nguy cơ, thách thức, ( như chết do AIDS, mang thai ngoài ý muốn, nghiện rượu và ma túy, bệnh lây nhiễm qua tình dục, chết vì bạo lực, vi phạm pháp luật, những thất bại trong học đường……). Khi đó kĩ năng sống như nhịp cầu giúp con người sang được bến bờ biên kia của lối sống tích cực và chất lượng cuộc sống. 
Nếu con người có kiến thức, có thái độ tích cực mới đảm bảo 50% của sự thành công, 50% còn lại là những kĩ năng cần cho cuộc sống mà ta gọi là kĩ năng sống.
 	IV. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
Qua nhiều năm dạy sinh học 8, tôi nhận thấy rằng để giáo dục các em học sinh phát triển toàn diện cả về Đức - Trí - Thể - Mỹ thì chỉ có cách giáo dục kĩ năng sống thông qua bộ môn. Để làm được điều đó tôi thực hiện các bước sau:
1. Phân loại kiến thức kĩ năng sống
Chương trình sinh học 8 có thể lồng ghép giáo dục kĩ năng sống. Chia làm 3 nhóm:
	1.1 Kĩ năng sống tự phục vụ, chăm sóc bản thân liên quan đến thể chất sức khỏe.
	1.2 Kĩ năng sống liên quan đến tự nhận thức, thực hành.
	1.3 Kĩ năng điều chỉnh và quản lí cảm xúc, tinh thần.
	 2. Phân loại các loại bài dạy trong chương trình sinh học 8 có thể lồng ghép giáo dục kĩ năng sống:
	 2.1 Kĩ năng sống tự phục vụ, chăm sóc bản thân liên quan đến thể chất sức khỏe gồm các bài:
2.2 Kĩ năng sống liên quan đến tự nhận thức, thực hành gồm các bài như 
 2.3 Kĩ năng điều chỉnh và quản lí cảm xúc, tinh thần gồm các bài như
Tùy bài mà đưa vào cho phù hợp tránh gượng ép, miễn cưỡng.
 3. Vận dụng kĩ năng sống thông qua bộ môn
	Để việc lồng ghép kĩ năng sống thông qua bộ môn sinh học 8 đạt hiệu quả cao, tránh gò bó, ôm đồm đi quá đà ảnh hưởng đến nội dung bài dạy thì đòi hỏi GV cần phải chuẩn bị đầy đủ và đúng các quy trình của một tiết dạy. Khâu dặn dò rất cần thiết nên giáo viên giành 3 phút để dặn dò các em. Có dặn dò kĩ các em mới chuẩn bị bài tốt và như thế tiết học mới đạt hiệu quả cao.Và khâu chuẩn bị giáo án của GV cũng được đổi mới. GV phải đưa ra các câu hỏi có phát huy tính tích cực phù hợp với mọi đối tượng, thực tế, gần gũi với các em thì mới giáo dục kĩ năng sống có kết quả cao. 
	Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được thực hiện xuyên suốt cả năm học nhưng để cô đọng tôi xin minh họa vấn đề này ở một số bài về một vài kĩ năng sống. Cụ thể như:
	a) Kĩ năng sống tự phục vụ, chăm sóc bản thân liên quan đến thể chất sức khỏe 
	- Giáo dục kĩ năng sống tư thế đứng thẳng
	Ví dụ: Bài “Cấu tạo và tính chất của xương”: Một số câu hỏi cần đặt ra để lồng ghép kĩ năng sống liên quan đến sức khỏe.
	-Thức ăn có liên quan gì đến sự phát triển của xương? 
	-Vì sao trẻ em Việt Nam thường mắc bệnh còi xương? 
	-Đi, ngồi không đúng tư thế gây ra hậu quả gì? 
	Như vậy thông qua các câu hỏi trên sau khi học sinh trả lời, giáo viên điều chỉnh thành đáp án đúng ta sẽ giáo dục cho học sinh một số kĩ năng như: ăn đủ chất đặc biệt thức ăn giàu canxi; ngồi học đúng tư thế, lao động, thể dục thể thao vừa sức, thường xuyên tắm nắng vào buổi sáng.
	- Kĩ năng về phòng tránh một số bệnh tật thông thường
	Ví dụ: Bài “Vệ sinh mắt”: 
	-Tại sao không đọc sách nơi thiếu ánh sáng hay đang đi tàu xe?
	- Nguyên nhân dẫn đến cận thị? 
	-Để không bị cận thị em cần phải làm gì?
	Qua câu hỏi này giáo dục cho học sinh ngồi học đúng tư thế, đảm bảo khoảng cách giữa mắt và sách, khi xem ti vi không ngồi gần; không đam mê trò chơi điện tử, phải đọc sách nơi có ánh sáng; ....
	- Nêu các cách phòng tránh bệnh đau mắt hột mà em biết? Từ đó giáo dục cho các em không dụi tay bẩn vào mắt, không dùng chung khăn mặt, không tắm sông, thường xuyên rửa mặt bằng nước muối pha loãng, ....
	- Kĩ năng về sức khỏe sinh sản
	* Ví dụ: Bài “Cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai”
	- Nêu rõ những ảnh hưởng của có thai sớm ngoài ý muốn của tuổi vị thành niên? Phải làm gì để điều đó không xảy ra?
	- Những hậu quả có thể xảy ra khi phải xử lý đối với việc mang thai ngoài ý muốn ở tuổi vị thành niên là gì? Làm thế nào để tránh được ?
	Thông qua các câu hỏi trên giáo dục các em học sinh biết mình cần phải làm gì khi còn là học sinh. Sống vô tư, hồn nhiên, tập trung vào học tập, không đua đòi, bồng bột, nhất thời hồ đồ để lại hậu quả đáng tiếc xảy ra.
	- Tác hại của rượu, thuốc lá, ma túy
	- Nêu tác hại của khói thuốc lá?
 	Và để lớp học sinh động hơn giáo viên đố vui: Hút thuốc lá có 3 cái lợi: không sợ ăn trộm, không sợ chó cắn, không sợ chết già. Em nào giải thích được? 
Sau khi học sinh trả lời giáo viên bổ sung: 
Hút thuốc lá nhiều bị viêm phổi ho nên ban đêm ăn trộm nghe ho tưởng còn thức nên không vào nhà lấy trộm. Viêm phổi Lao phổi ung thư phổi người gầy yếu nên đi phải chống gậy, gặp chó xông vào lấy gậy tự vệ nên không sợ chó cắn. Và tất nhiên ung thư phổi thì sẽ chết trẻ đâu còn để già mới chết. 
	Qua câu đối vui đó giáo viên giáo dục học sinh thấy được tác hại của việc hút thuốc lá. Từ đó, em sẽ không hút thuốc lá và vận động, tuyên truyền người thân, bạn bè không hút thuốc lá.
	 Để tăng hiệu quả của việc giáo dục, giáo viên cho học sinh đọc trang báo giáo viên sưu tầm để học sinh hiểu sâu hơn về tác hại của việc hút thuốc lá:
Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe
 - Kĩ năng phòng ngừa tai nạn cho trẻ
	 Ví dụ : “Thực hành hô hấp nhân tạo”:
	-Trước khi hô hấp cho người bị chết đuối, điện giật, ta cần phải làm gì? 
	-Trình bày phương pháp hà hơi thổi ngạt, phương pháp ép lồng ngực? Qua đó giáo dục cho học sinh kĩ năng gặp người chết đuối phải xốc nước rồi mới hô hấp. Trường hợp điện giật phải cắt cầu giao điện. Qua từng phương pháp hô hấp học sinh nắm được các kĩ năng hô hấp nhân tạo.
	 Để tăng tính giáo dục giáo viên cho học sinh xem một số hình ảnh về tai nạn chết đuối có thể xẩy ra khi các em tắm sông và tham gia giao thông đường thủy không đúng qui định: 
 Các em tắm sông và tham gia giao thông đường thủy không đúng qui định. 
	-Kĩ năng liên quan đến môi trường sống
	 Ví dụ 1: Bài: “Vệ sinh da”. 
	-Để bảo vệ da ta cần phải làm gì? 
	Giáo dục học sinh vệ sinh thân thể: tắm rửa, thay quần áo. Vệ sinh trường lớp, nhà ở, môi trường xung quanh, bảo vệ cây xanh.
	b) Kĩ năng sống liên quan đến tự nhận thức, thực hành 
	- Kĩ năng xây dựng nhân cách:
	 Ví dụ: Bài “Vệ sinh hệ thần kinh”:
	Giáo viên cho học sinh hoạt động nhóm để hoàn thành bảng 54.3 SGK
Chất kích thích
Tên chất
Tác hại
	- Nêu tác hại của rượu, thuốc lá, ma túy?
	- Nêu những biểu hiện về cử chỉ và hành động của những người nghiện rượu, thuốc lá, ma túy?
	- Thông qua đó giáo viên giáo dục học sinh sống có nhân cách: không bê tha, chửi thề, nói tục, trộm cắp, gây gỗ đánh nhau, ....
	- Kĩ năng xây dựng thói quen đúng giờ:
	 Ví dụ: Bài “Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện”:
	- Em hãy cho ví dụ về một số phản xạ có điều kiện?
	- Nêu sự thành lập và ức chế phản xạ có điều kiện? 
	-Điều đó có ý nghĩa gì?
	- Sau khi học sinh cho ví dụ giáo viên điều chỉnh bổ sung từ đó cho các em thói quen:	- Đi ngủ đúng giờ, dậy đúng giờ. 
	- Đi học đúng giờ.
	- Có thời gian biểu học tập.
	- Ăn đúng giờ, điều độ.
	- Học bài và làm bài đầy đủ trước khi đến lớp
	- Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng trả lời, kĩ năng giới thiệu bản thân, kĩ năng diễn đạt ý kiến lắng nghe:
	 Ví dụ: - Bộ xương người chia làm mấy phần ? (Ba)
	Qua đó ta thấy rằng kĩ năng này học sinh còn hạn chế rất nhiều. Nhiều em đứng lên phát biểu xây dựng bài nhưng không lặp lại câu hỏi, nội dung diễn đạt không rõ ràng, không thu hút người nghe. Kĩ năng này tôi luôn rèn luyện các em trong suốt quá trình dạy học trong bộ môn sinh 8 nói riêng và tất cả các khối lớp nói chung.
	- Kĩ năng ứng xử có văn hóa:
	Ở địa bàn nông thôn do thói quen nên các em thường xưng hô với bạn bè (mi - tau); với cha mẹ (ông - tui; bà - tui); với cô thầy (bà cô; ông thầy). Trong từng tiết dạy giáo viên luôn để ý cách trả lời hay những lúc nói chuyện của học sinh trong giờ học, ra chơi mà uốn nắn kịp thời. Giáo viên luôn để ý đến cách ăn mặc, tác phong, cử chỉ của từng em mà giáo dục. Bởi lẽ giáo viên không chỉ dạy chữ mà còn dạy người.
	- Kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào việc giải thích các hiện tượng trong thực tế đời sống, học tập và sản xuất:
	 Ví dụ : Bài” Vệ sinh hệ bài tiết nước tiểu”
	-Tại sao khi mùa lạnh ta thường đi tiểu nhiều? 
	-Vì sao ta không nên nhịn tiểu lâu? 
	Qua đó giúp học sinh giải thích được hiện tượng thực tế và giáo dục các em đi tiểu đúng lúc để tránh sỏi thận
	c) Kĩ năng điều chỉnh và quản lí cảm xúc, tinh thần :
	Trong cuộc sống ai cũng muốn mình khỏe mạnh, hạnh phúc nhưng không ai cũng có được điều đó. Bệnh tật, tai nạn luôn rình rập hoặc do thiếu hiểu biết hay một chút nông nổi đã mắc phải căn bệnh quái ác. Thông qua chương trình sinh học 8 giáo dục các em biết cách bảo vệ mình và quan tâm, giúp đỡ mọi người chẳng may rơi vào các hoàn cảnh ốm đau, bệnh tật hay lầm lỡ. Giáo dục các em không phân biệt đối xử, xa lánh những nạn nhân HIV, AIDS. Hãy gần gũi, thông cảm chia sẽ để nạn nhân này sống có ích trong những ngày còn lại của đời mình.
	Ví dụ: Bài “HIV, AIDS, Đại dịch AIDS thảm họa của loài người”
	-Ta có nên kỳ thị phân biệt đối xử với những người bị nhiễm HIV, AIDS hay không? Vì sao? 
	Sau khi học sinh trả lời, giáo viên điều chỉnh bổ sung và để tăng giáo dục, giáo viên cho học sinh đọc một lời tâm sự của nạn nhân AIDS. 
 Qua đó giáo dục các em:	- Thông cảm với người bị HIV, AIDS
	- Không phân biệt đối xử với họ.
	- Biết chia sẽ với nạn nhân AIDS.
MỘT SỐ KĨ NĂNG ĐƯỢC THỂ HIỆN TRONG TIẾT DẠY MINH HỌA
BÀI 14. BẠCH CẦU – MIỄN DỊCH
1. Kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào việc giải thích các hiện tượng trong thực tế đời sống. (kĩ năng giải quyết vấn đề)
	- GV nêu một hiện tượng thực tiễn mà có thể nhiều hs đã trải qua như chân dẫm phải gai, chân có thể sưng đau một vài hôm rồi khỏi. Chân khỏi do đâu? Cơ thể tự bảo vệ mình như thế nào?
	 Qua hoạt động 1 của bài, Hs giải thích được cơ chế bảo vệ cơ thể nhờ hoạt động của bạch cầu
Qua đó giúp học sinh giải thích được hiện tượng thực tế Đại thực bào 
2. Kĩ năng quan sát tranh ảnh, tìm kiếm thông tin SGK... 
HS đọc thông tin SGK và quan sát hình 14.1 ->14.4. Thảo luận nhóm trả lời các câu hỏi sau:
?1. Thế nào là kháng nguyên, kháng thể?
?2. Sự tương tác giữa kháng nguyên và kháng thể theo cơ chế nào?
?3. Cho biết các hoạt động chủ yếu của Bạch cầu
Tế bào B tiết kháng thể 
Các kháng thể
Tế bào vi khuẩn bị vô hiệu hóa 
3. Kĩ năng tự tin khi trình bày ý kiến trước nhóm, lớp...
Hãy thảo luận nhóm và trả lời các câu hỏi:
 Miễn dịch là gì?
 Miễn dịch tự nhiên gồm những dạng nào?
 Thế nào là miễn dịch bẫm sinh và miễn dịch tập nhiễm?
 Miễn dịch nhân tạo là gì?
 	Sau khi hoạt động nhóm, đại diện nhóm lên trình bày kết quả...
4. Kĩ năng ra quyết định rèn luyện sức khỏe để tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể
 Bài dạy đã liên hệ thực tế tiêm phòng các loại vắc xin
 Để tăng hệ miễn dịch cho cơ thể phải luyện tập thể dục thể thao, môi trường sống lành mạnh
V. KẾT LUẬN 
	Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân đã rút ra được trong quá trình dạy môn sinh học 8. Đối với việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh chúng ta phải tiến hành thường xuyên, kết hợp với theo dõi, kiểm tra, động viên, nhắc nhở. Do trình độ của học sinh không đồng đều, ý thức của mỗi em cũng khác nhau nên không thể một sớm một chiều các em thay đổi được. Do vậy, trong từng tiết dạy tùy nội dung bài mà giáo viên lồng ghép giáo dục kĩ năng sống sao cho phù hợp. tránh tình trạng ôm đồm lo xoáy vào giáo dục kĩ năng sống mà quên đi truyền thụ nội dung chính của bài học.Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chúng ta không có tham vọng thực hiện giáo dục tất cả các kĩ năng sống. (Bởi ở môn sinh học chỉ lồng ghép và chúng ta chưa có giáo trình riêng cho môn học này). 
	 Đây là một chuyên đề bản thân tôi đúc rút trong quá trình giảng daỵ bộ môn nhiều năm tuy còn chủ quan, chưa được trọn vẹn rất mong được các thầy cô và đồng nghiệp cùng chia sẻ đóng góp để việc giảng dạy sinh 8 đạt hiệu quả cao hơn, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ của nghành giáo dục đã đề ra. Tôi xin chân thành cảm ơn ý kiến đóng góp quí báu của thầy cô giáo và đồng nghiệp.
	GVBM Sinh trường THCS Kim Đồng

File đính kèm:

  • docChuyen de mon Sinh.doc
Giáo án liên quan