Chuyên đề: Giúp học sinh viết đoạn văn ngắn Lớp 2 - Trần Thị Tú Anh

ê Về kỹ năng:

 Để tránh tình trạng học sinh không làm được bài hoặc viết lan man quá nhiều câu dẫn đến lạc đề, giáo viên giúp học sinh cần biết làm như thế nào để viết được một đoạn văn và cần phải viết những gì trong đoạn văn ấy.

 Giúp HS có một hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng:

 Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ, đầy đủ. GV có thể tranh thủ thời gian cuối tiết học hướng dẫn HS chuẩn bị, đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị phần tự học khi ở nhà, trước khi lên lớp. Đối với những bài không có câu hỏi gợi ý, GV có thể soạn , cung cấp những câu hỏi cho các em .Đồng Thời có thể cho các em quan sát một số bức tranh , hình ảnh có thật liên quan đến bài dạy để các em có thêm vốn sống tạo cho bài văn thêm sinh động

 Ví dụ: a/Bài viết về gia đình :

- Gia đình em gồm những ai?

- Những người đó làm công việc gì?

- Tình cảm của những người trong gia đình như thế nào ?

- Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em?

 

doc5 trang | Chia sẻ: xuannguyen98 | Lượt xem: 613 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề: Giúp học sinh viết đoạn văn ngắn Lớp 2 - Trần Thị Tú Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Chuyªn ®Ò: Gióp häc sinh viÕt ®o¹n v¨n ng¾n - Líp 2. 
 Hä vµ tªn: TrÇn ThÞ Tó Anh
 Để giúp HS học tốt tiết Tập làm văn viết đoạn văn ngắn theo yêu cầu của đề bài, tôi thường áp dụng những phương pháp sau: 
a) Vận dụng phương dạy học phát huy tính tích cực của học sinh kết hợp phương pháp quan sát và hỏi đáp:
 Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn: Quan sát trên lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà. Giáo viên cần khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật của đối tượng , mục đích là giúp HS tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh đó, tôi cũng hướng dẫn HS cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một cách có cảm xúc về sự vật. 
b) Phương pháp thực hành giao tiếp: 
 Thông qua phương pháp quan sát, giáo viên rèn cho học sinh kỹ năng nói, trình bày miệng bài nói, trước khi làm bài viết. Trên cơ sở đó, giáo viên điều chỉnh giúp học sinh hoàn thiện bài viết. Với phương pháp này,tôi thường tổ chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm. ( HS có thể kết nhóm theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia làm việc trong nhóm )
c) Phương pháp phân tích ngôn ngữ:
 Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và câu được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng cường sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập làm văn. Sử dụng phương pháp này để GV có cơ sở giúp HS nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận. 
Ví dụ: Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu: “ Ai – là gì?”, “ Ai – làm gì?”, “ Ai – như thế nào?”, GV hướng dẫn HS nhận biết những vấn đề sau:
- Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai?( hoặc cái gì?/ con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì (hoặc làm gì?/ như thế nào? ( Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo ).
- Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? ( Đảm bảo về mặt nghĩa )
 Trên cơ sở đó , GV hướng dẫn HS viết dấu chấm khi hết câu. 	 
ê Về kỹ năng: 
 Để tránh tình trạng học sinh không làm được bài hoặc viết lan man quá nhiều câu dẫn đến lạc đề, giáo viên giúp học sinh cần biết làm như thế nào để viết được một đoạn văn và cần phải viết những gì trong đoạn văn ấy. 
 Giúp HS có một hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng: 
 Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ, đầy đủ. GV có thể tranh thủ thời gian cuối tiết học hướng dẫn HS chuẩn bị, đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị phần tự học khi ở nhà, trước khi lên lớp. Đối với những bài không có câu hỏi gợi ý, GV có thể soạn , cung cấp những câu hỏi cho các em .Đồng Thời có thể cho các em quan sát một số bức tranh , hình ảnh có thật liên quan đến bài dạy để các em có thêm vốn sống tạo cho bài văn thêm sinh động
 Ví dụ: a/Bài viết về gia đình :
- Gia đình em gồm những ai?
- Những người đó làm công việc gì?
- Tình cảm của những người trong gia đình như thế nào ?
- Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em?
b/ Bài viết về một loài cây :
- Đó là cây gì, trồng ở đâu ?
- Hình dáng cây như thế nào? 
- Cây có lợi ích gì ?
c/ Bài viết kể về một việc làm tốt mà em hoặc bạn em đã làm :
- Em ( Bạn em )đã làm việc tốt khi nào? Ơ đâu? Đó là việc gì? 
- Em ( Bạn ấy ) đã làm như thế nào?
- Em suy nghĩ gì khi làm ( thấy bạn làm ) việc tốt đó?
 Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn: 
+ Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết. ( Có thể diễn đạt bằng một câu )
+ Phát triển đoạn văn : Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý , mỗi gợi ý có thể diễn đạt 2đến 3 câu tùy theo năng lực học sinh.
+ Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ , mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
Ví dụ: Viết về một con vật:
- Con vật em định kể là con vật gì? 
- Nó sống ở đâu? Hình dáng nó như thế nào?
- Hoạt động của nó có gì nổi bật?
- Vì sao em thích con vật đó?
Câu mở đầu: 
- Giới thiệu về chim sáo 
- Trong thế giới loài chim, em thích nhất là chim sáo .
Các câu phát triển: 
 - Kể về chim sáo
Chim sáo được ông em nuôi đã hai năm rồi .Mỏ nó vàng .Lông màu nâu sẫm .Nó hót suốt ngày .Đôi khi còn nói được cả tiếng nguời.Có lẽ nó vui vì được mọi người chăm sóc, nuôi trong một cái lồng rất to, bên cạch một cây hoa lan rrất cao toả bóng mát. 
Câu kết thúc: 
- Tình cảm của em đối với loài chim này
 Em thích nhất chim sáo vì chúng là những con vật hiền lành, dễ thương.
 Giáo viên cần giúp cho học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài làm các em được phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủ động hình thành kỹ năng từng bước ở từng thời điểm thích hợp. Không nên áp đặt và đòi hỏi các em phải thể hiện được ngay những kỹ năng mới được hình thành. Trong quá trình giảng dạy, GV phải kiên nhẫn luôn tái hiện và lặp lại kiến thức cho HS trong suốt năm học, giúp HS có được nền móng tốt cho việc học tập môn Tập làm văn ở các lớp trên.
ê. Về kiến thức:
 Tổ chức ôn tập tốt cho học sinh: Giáo viên phải nắm các dạng đề Tập làm văn ở lớp 2 để tổ chức ôn tập cho HS. Có thể tập hợp từ chương trình một số đề bài sau đây: 
 Viết một đoạn văn ngắn về: Cô giáo ( hoặc thầy giáo )của em ; Một người thân; Gia đình; Một em bé; Các mùa trong năm; Kể một việc làm tốt;Một con vật; Một loài chim; Tả ngắn về biển;Tả ngắn về một loài cây; Một loài hoa; Viết về Bác Hồ.
 Khi học sinh được ôn tập tốt, kiến thức được hệ thống hóa một cách chắc chắn, phân biết rõ đặc điểm của các đối tượng sẽ giúp các em tránh được những nhầm lẫn đáng tiếc, ảnh hưởng đến chất lượng bài viết của các em.
 Tăng cường củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh: 
 Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần liên hệ những nội dung kiến thức có liên quan đến các chủ đề học tập trong các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu với phân môn Tập làm văn, để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự vật, hiện tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, không bỡ ngỡ khi gặp những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có hiểu biết về đề tài, vận dụng kỹ năng thực hành để bài viết đạt kết quả.
Ví dụ: Khi học về chủ đề “ Ông bà“ “Cha mẹ”, “Anh em” ( từ tuần 10 đến tuần 16), với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia đình, cùng với những tiết học phân môn Luyện từ và câu cung cấp, mở rộng vốn từ ngữ cho HS, ngoài việc giúp HS hiểu rõ và nắm chắc người thân của mình là những ai, ngoài việc khai thác và giáo dục tình cảm cho HS thông qua các nhân vật trong bài Tập đọc, nhấn mạnh cái hay, cái đẹp của nội dung bài, hướng cho HS liên hệ đến bản thân, gia đình, người thân của mình, tôi còn cung cấp thêm từ ngữ, hướng dẫn các em hệ thống lại, lựa chọn, ghi nhớ các từ ngữ phù hợp với đề tài ( ông bà, cha mẹ, anh em ) để chuẩn bị cho bài làm văn sắp tới ( viết về người thân ), tôi luôn nói với các em sự cần thiết phải học thuộc và lựa chọn những từ ngữ đã học để các em vận dụng vào bài tập làm văn, khơi gợi và kích thích tinh thần học tập của các em.
Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn trên cơ sở các câu hỏi gợi ý :
Các bước hình thành: 
- Hướng dẫn học sinh làm miệng, trả lời miệng từng câu hỏi. Gợi ý cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau.
-Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng ; cung cấp và gợi ý để các em có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ cũ, có thể hướng dẫn mẫu các câu văn có hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh để bài văn sinh động hơn ( khuyến khích học sinh khá giỏi vận dụng, không bắt buộc tất cả các đối tượng học sinh thực hiện vì đây là phần kiến thức chưa học, giáo viên hướng dẫn mẫu và cung cấp các thành ngữ so sánh , cách nhân hóa nhưng không đưa những thuật ngữ này ra với đối tượng học sinh lớp 2 ).
- Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý để hoàn chỉnh bài làm miệng.
- Cho một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn học sinh viết liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn. 
- Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ở năm học trước nhằm kích thích tinh thần học tập của học sinh.
Thực hiện nghiêm túc việc chấm và chữa bài:
 Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều chỉnh, sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn. Học sinh lớp 2 chưa được học và luyện tập nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ rất nhiều lỗi sai . trong quá trình chấm bài, GV phát hiện, giúp HS khắc phục, biết lựa chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Đối với những bài làm có ý hay, GV giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn.
 Khi sửa bài, GV nên giới thiệu những bài làm hay ở năm học trước, hoặc những bài hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo, từ đó nhận thấy sự khác nhau về cach diễn đạt trong cùng một đề tài để các em hiểu rằng những bài làm thể hiện suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và tôn trọng.

File đính kèm:

  • docTuan_26_Tom_Cang_va_Ca_Con.doc