Báo cáo Bồi dưỡng thường xuyên - Mô đun TH 36: Các giải pháp sư phạm trong công tác giáo dục của người giáo viên chủ nhiệm
7. Rèn luyện học sinh tính trung thực
Phải rèn luyện cho học sinh tính trung thực, tự lập, vượt qua mọi khó khăn thử thách, không nên ỷ lại. Có được tính trung thực điều đó khẳng định là các em đã trưởng thành, phải chịu trách nhiệm trước công việc của mình làm, nếu có sai phạm phải tự nhận lấy, không đổ lỗi cho người khác. Từ đó giúp các em tự khẳng định được mình và các em sẽ đắn đo trước những công việc mà mình sắp làm nhằm hạn chế bớt những sai phạm.
8. Sinh hoạt chủ nhiệm
Trong buổi sinh hoạt cuối tuần, GVCN đóng vai trò cố vấn, hướng dẫn các em từng bước tiến hành. Sau đó GVCN sẽ là người kết luận cuối cùng. Đối với những trường hợp vi phạm cho các em tự báo cáo về mình dựa theo nội quy của lớp. (từng học sinh báo báo)
Sau đó lớp trưởng nhận xét xem còn ai chưa báo cáo, hoặc báo cáo không chính xác để GVCN xử lý. Trong việc xử lý những học sinh vi phạm phải đúng người, đúng tội theo Nội quy đã đề ra. Tránh trường hợp vị nễ, xử học sinh này nặng, xử học sinh kia nhẹ làm mất đi tính nghiêm khắc, công minh của người thầy. Những học sinh vi phạm phải chấp nhận hành vi vi phạm của mình. Điều này thông qua sự báo cáo của BCS lớp phải thật sự chính xác công bằng. Những hình thức kỹ luật đã đưa ra bắt buộc học sinh đó phải thực hiện, GVCN không bỏ qua với bất cứ trường hợp nào. Làm được điều đó sẽ giúp cho nề nếp lớp học đi vào khuôn khổ nhất định, rèn luyện cho các em chấp hành tốt Nội quy trường, lớp như vậy sẽ hạn chế tối đa trường hợp học sinh có biểu hiện cá biệt tái phạm.
Ngoài việc xử lý học sinh vi phạm, GVCN cần phải có hình thức biểu dương, khen thưởng. Đây là hình thức rất có ý nghĩa, học sinh cá biệt thông thường vốn khó tính, khó dạy nếu GVCN thiên vị lập tức sẽ có sự phản ứng ngược lại. Mỗi khi học sinh cá biệt làm được một việc tốt, đạt điểm tốt thì phải động viên khuyến khích các em nên tiếp tục phát huy. Nếu các em sai phạm thì cứ nhẹ nhàng xử lý như những học sinh khác, tránh nóng vội, kỳ thị để các em tự nhận lỗi và sửa chữa.
iện. *GVCN xây dựng nội quy lớp: Nội quy lớp là một công cụ hỗ trợ GVCN xử lý học sinh vi phạm. Bên cạnh GVCN phải xây dựng thang điểm thi đua của lớp hàng tuần ứng với nội quy của lớp, trong đó có hình thức biểu dương, khen thưởng và kỹ luật cụ thể từng trường hợp và được công khai vào buổi sinh hoạt chủ nhiệm cuối tuần. Lưu ý: GVCN đóng vai trò hết sức quan trong trọng việc rèn luyện, giáo dục học sinh, nên trong các buổi 15 phút đầu giờ GVCN phải thường xuyên đến lớp để theo dõi tình hình. Bên cạnh tác phong của GVCN cũng rất cần thiết như: đầu tóc, trang phục, lên lớp đúng giờ, những gì nói với học sinh thì phải thực hiện bằng được tránh tình trạng dễ dãi qua loa, phải xử lý học sinh đúng quy định đã đặt ra dù cho học sinh đó vô tình hay cố ý vi phạm. Từ đó giúp học sinh học hỏi được phong cách, tác phong trước tiên từ người GVCN lớp, làm các em càng kính trọng hơn. *GVCN khảo sát học sinh: Sau khi làm xong công tác tổ chức lớp, GVCN tiến hành khảo sát để nắm được những thông tin có liên quan đến hoàn cảnh, đời sống gia đình của các em. Qua đó giúp GVCN biết được hoàn cảnh từng đối tượng học sinh, trong số đó dễ dàng nhận ra được những học sinh sẽ rơi vào trường hợp học sinh cá biệt để kịp thời ngăn chặn, uốn nắn, biết được những học sinh nào có hoàn cảnh khó khăn dẫn đến nguy cơ bỏ học cao để báo lên Hội khuyến học nhà trường kịp thời giúp đỡ. Sau khi nắm được những thông tin của học sinh, GVCN sẽ phân luồng đối tượng, xem những học sinh nào có thể dẫn đến sa sút về học tập và sẽ trở thành học sinh cá biệt sau đó lập sổ để theo dõi dành riêng cho những đối tượng học sinh này. 2. Tiếp xúc với cha mẹ học sinh Trong cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm GVCN phải cố gắng nắm được số điện thoại liên lạc của gia đình, đây là điều kiện thuận lợi giúp GVCN trao đổi gián tiếp với cha mẹ học sinh khi cần thiết. Ngoài ra GVCN cần phải tiếp xúc riêng để trao đổi thông tin với cha mẹ của những học sinh cá biệt, đây là điều rất cần thiết, không thể thiếu đối với giáo viên làm công tác chủ nhiệm. Thông qua công việc này giúp giáo viên biết được các thói quen, sở thích, thái độ của học sinh thường biểu hiện ở gia đình. Qua đó giúp cha mẹ học sinh biết được tình hình học tập, những dấu hiệu sa sút của các em đồng thời giúp cha mẹ học sinh thấy được sự quan tâm của nhà trường đối với gia đình từ đó tạo được niềm tin đối với phụ huynh trong việc giáo dục con cái của họ. Mối quan hệ có tác động hai chiều này nhằm hạn chế bớt mặc cảm, tự ti ở các em, giúp các em giảm bớt tâm lý lo sợ khi tiếp xúc với GVCN. 3. Tìm hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh Ngoài những thông tin mà GVCN tìm hiểu về học sinh cá biệt, bên cạnh cần phải tìm hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh đó để biết những đối tượng mà học sinh này đang chơi chung họ như thế nào. Có thể GVCN tìm hiểu thông qua lớp trưởng, các học sinh khác trong lớp, thông qua phiếu khảo sát Có những học sinh ít giao tiếp với bạn bè chỉ thích chơi game mà học tập giảm sút, nên khuyến khích các học sinh khác trong lớp thường xuyên tiếp xúc để có biện pháp giúp đỡ bạn, giúp các em sống trong môi trường đoàn kết, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trong bất kỳ trường hợp nào. GVCN có thể giáo dục các em bằng cách nêu gương, điểm hình giúp các em tự nhận thấy những khuyết điểm của mình để từng bước sửa chữa. GVCN nên gặp riêng từng học sinh để trao đổi, giải thích cho các em hiểu những sai trái của mình để các em có hướng khắc phục, không nên làm các em cảm thấy mặc cảm trước lớp. 4. Tạo sự gần gũi, quan tâm với học sinh Tạo mối quan hệ gần gũi là thể hiện sự quan tâm đối với các em, nhưng người thầy vẫn luôn giữ chuẩn mực, nghiêm khắc. Tiếp xúc tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em, nhằm để động viên, khích lệ tạo cho các em có được chỗ dựa tinh thần vững chắc. Để các em thấy sự quan tâm của người thầy như người cha, người mẹ của các em luôn dìu dắt, nâng đỡ các em khi vấp phải những khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống. Khi học sinh nghỉ học, dù có phép hay không phép, dù bất cứ lý do gì những buổi học sau phải tiếp xúc để thăm hỏi các em, đôi khi cũng có những lý do khá đặc biệt người thầy có thể chia sẽ với các em, làm cho các em cảm thấy vui hơn khi được thầy cô quan tâm đến mình, từ đó những biểu hiện cá biệt dần dần biến mất. 5. Công tác phối hợp. Để giáo dục được những học sinh cá biệt, bản thân của mỗi GVCN cần phải biết phối hợp kịp thời, linh hoạt với các bộ phận trong nhà trường. Như phối hợp với Tổ tự quản, cung cấp cho Tổ tự quan danh sách những học sinh cá biệt để kịp thời hỗ trợ trong việc theo dõi, nhắc nhỡ và xử lý những vi phạm của các em. Phối hợp với giáo viên bộ môn, thông qua đó giáo viên có thể theo dõi thái độ học tập của các em ở từng môn học để có hướng bồi dưỡng, rèn luyện thêm cho các em về kiến thức. 6. Giao nhiệm vụ cho học sinh: Thường GVCN không giao nhiệm vụ cho những học sinh cá biệt, vì cho rằng những học sinh này sẽ không làm được gì, coi thường các em mà chỉ luôn la gầy, nêu tên là chính. Điều đó không khéo dễ làm hỏng các em hơn. Cho nên đối với những đối tượng này, GVCN nên tạo cho các em một cơ hội để các em thấy được vai trò của mình trong tập thể, đồng thời phát huy tính làm chủ của các em và nhận thấy rằng mình không bị lạc lỏng, không bị bỏ rơi. Như tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ, tham gia các trò chơi dân gian, các hoạt động thể thao, tham gia làm báo tường, cắm trại nhân các ngày lễ hội của trường tổ chứcKhi hoàn thành nhiệm vụ GVCN phải đánh giá kết quả bằng cách nêu gương trước tập thể lớp 7. Rèn luyện học sinh tính trung thực Phải rèn luyện cho học sinh tính trung thực, tự lập, vượt qua mọi khó khăn thử thách, không nên ỷ lại. Có được tính trung thực điều đó khẳng định là các em đã trưởng thành, phải chịu trách nhiệm trước công việc của mình làm, nếu có sai phạm phải tự nhận lấy, không đổ lỗi cho người khác. Từ đó giúp các em tự khẳng định được mình và các em sẽ đắn đo trước những công việc mà mình sắp làm nhằm hạn chế bớt những sai phạm. 8. Sinh hoạt chủ nhiệm Trong buổi sinh hoạt cuối tuần, GVCN đóng vai trò cố vấn, hướng dẫn các em từng bước tiến hành. Sau đó GVCN sẽ là người kết luận cuối cùng. Đối với những trường hợp vi phạm cho các em tự báo cáo về mình dựa theo nội quy của lớp. (từng học sinh báo báo) Sau đó lớp trưởng nhận xét xem còn ai chưa báo cáo, hoặc báo cáo không chính xác để GVCN xử lý. Trong việc xử lý những học sinh vi phạm phải đúng người, đúng tội theo Nội quy đã đề ra. Tránh trường hợp vị nễ, xử học sinh này nặng, xử học sinh kia nhẹ làm mất đi tính nghiêm khắc, công minh của người thầy. Những học sinh vi phạm phải chấp nhận hành vi vi phạm của mình. Điều này thông qua sự báo cáo của BCS lớp phải thật sự chính xác công bằng. Những hình thức kỹ luật đã đưa ra bắt buộc học sinh đó phải thực hiện, GVCN không bỏ qua với bất cứ trường hợp nào. Làm được điều đó sẽ giúp cho nề nếp lớp học đi vào khuôn khổ nhất định, rèn luyện cho các em chấp hành tốt Nội quy trường, lớp như vậy sẽ hạn chế tối đa trường hợp học sinh có biểu hiện cá biệt tái phạm. Ngoài việc xử lý học sinh vi phạm, GVCN cần phải có hình thức biểu dương, khen thưởng. Đây là hình thức rất có ý nghĩa, học sinh cá biệt thông thường vốn khó tính, khó dạy nếu GVCN thiên vị lập tức sẽ có sự phản ứng ngược lại. Mỗi khi học sinh cá biệt làm được một việc tốt, đạt điểm tốt thì phải động viên khuyến khích các em nên tiếp tục phát huy. Nếu các em sai phạm thì cứ nhẹ nhàng xử lý như những học sinh khác, tránh nóng vội, kỳ thị để các em tự nhận lỗi và sửa chữa. Giải pháp xử lý tình huốn sư phạm của người giáo viên chủ nhiệm trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp: Tiết chào cờ, hoạt động của sao nhi đồng và Đội TNTPHCM: - Tiết cháo cờ đầu tuần: sau tiết sinh hoạt dưới cờ (tiết đầu tuần), các giáo viên chủ nhiệm (GVCN) nắm danh sách các học sinh (HS) vắng có phép, không phép, đi trễ, hoặc vi phạm nội quy như mang dép lê, áo không có phù hiệu, tóc tai xịt keo hay nhuộm màu để GVCN làm việc với các em, quán triệt nội quy hoath động của lớp. Bởi vì trong giờ này, ngoài những vấn đề “thời sự” liên quan đến nhà trường và học sinh, thầy cô còn cung cấp cho học sinh những bài học đạo đức . Khi trong lớp có học sinh nào gặp hoàn cảnh khó khăn là thầy cô gợi ý cho lớp thể hiện tinh thần tương thân tương ái, giúp một bạn vượt khó, với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, chuyện kỷ luật trong lớp, việc thi đua nội bộ lớp, việc đánh giá học sinh cũng được giáo viên hướng dẫn thực hiện một cách nhẹ nhàng và chân tình. - Về hoạt động sao nhi đồng và đội TNTPHCM: Phối hợp với Tổng phụ trách trong hoạt động Đội – Sao: - Mỗi tiết học hiệu quả hơn nếu nề nếp lớp học tốt. Bởi vậy, cần phối hợp với ban thi đua yêu cầu chấm điểm về nề nếp lớp học và trao đổi các hoạt động ngoài giờ lên lớp phù hợp. - Trong sinh hoạt 15 phút, GVCN định hướng cho các em phụ trách sao (HS lớp 4-5) đến giao lưu với học sinh lớp bằng một số hoạt động giao tiếp hàng ngày đơn giản; hay kiểm tra bảng cửu chương, kỹ năng tính toán, thi vẽ tranh. Vậy là chỉ 15 phút sinh hoạt Sao đầu buổi học các em được rèn rất nhiều kỹ năng nhờ vào anh chị phụ trách Sao . Giải pháp xử lý tình huốn sư phạm của người giáo viên chủ nhiệm trong công tác quản lý và giáo dục học sinh trong hoạt động 2 buổi/ ngày: * GIẢI PHÁP 1: Nâng cao nhận thức giáo viên - Mỗi giáo viên phải nắm bắt, hiểu thấu đáo nội dung và tinh thần chỉ đạo của ngành về vấn đề tự chủ, linh hoạt, sáng tạo trong dạy học . - Giáo viên phải hiểu về mục tiêu, nguyên tắc của dạy học cả ngày để từ đó định hướng cho những thiết kế bài dạy phù hợp. - GV phải ý thức được rằng HS Tiểu học tiềm ẩn nhiều khả năng phát triển, song do chưa có kinh nghiệm về cuộc sống nên các em tiếp thu không chọn lọc. Bởi vậy: GVCN giữ vai trò quyết định đến sự phát triển đúng hướng của các em, là nhân tố quyết định đối với chất lượng GD của mỗi lớp tiểu học, của từng HS tiểu học. Hiểu điều đó để GVCN cần định hướng cho mình trong công tác chuẩn bị. * GIẢI PHÁP 2: - Dạy đến từng đối tượng HS, dạy theo nhu cầu người học một cách hợp lý - Khi mọi đối tượng HS đều được học, mỗi một học sinh được giao từng công việc cụ thể phù hợp với năng lực, sở trường thì các em sẽ hăng hái thực hiện, không khí lớp học sôi nổi. Muốn đạt được mục tiêu này giáo viên phải: a. Tìm hiểu, nắm bắt, phân loại đối tượng HS: Đây là việc làm rất quan trọng, bởi lẽ khi phân loại được HS của lớp, giáo viên CN sẽ hình dung ra nhóm học sinh nào cần gì để giáo viên có kế hoạch. b. Chọn nội dung cho phù hợp với từng nhóm đối tượng HS: Song song với việc nắm bắt, phân loại học sinh, giáo viên CN phải quan tâm đến chuẩn kiến thức, kỹ năng cần đạt của từng bài, từng phần trong từng tiết học chính khóa ở buổi 1. Với nội dung đó, ở buổi 2 học sinh TB, yếu cần luyện kỹ năng gì. Em nào chưa nắm được chuẩn? Em nào hổng kiến thức kỹ năng gì? Do nguyên nhân nào, cần đưa nội dung vào dạy và với lượng bài bao nhiêu còn HS khá giỏi cần mở rộng, khắc sâu hoặc nâng cao đến đâu. Nên đưa dạng bài nào vào dạy ở phần nào là hợp lý, là tạo được điều kiện tốt nhất cho các em được cọ xát, phát triển năng khiếu. Trong thực tế lên lớp, có những đơn vị kiến thức khi dạy buổi 2 HS trung bình, yếu các em luyện để đạt chuẩn vững chắc một cách tự giác, hứng thú với nhiều biện pháp của giáo viên là xem như thành công. Còn nhóm HS khá, giỏi các em đó nắm chắc kiến thức cơ bản thì nhiệm vụ của giáo viên không được gò ép các em làm thui chột năng khiếu của HS. Lúc này giáo viên phải tạo cho các em cơ hội được tiếp xúc, được làm quen, được chủ động chiếm lĩnh kiến thức ở mức độ cao hơn. Điều đó đặt ra cho giáo viên phải chọn nội dung phù hợp với từng đối tượng,vấn đề chuẩn bị không cầu kỳ, không tốn kém, không hình thức mà mọi đối tượng học sinh đều phát huy khả năng của mình. Trong dạy học, vấn đề không thể thiếu là ta phải: luôn “làm mới”, luôn gây hứng thú và lòng ham mê khám phá, tìm tòi cho học sinh bằng nhiều cách thức. * GIẢI PHÁP 3: Đa dạng hóa các hình thức dạy học Khi lên lớp dạy học ở buổi 2 nếu hình thức dạy học đơn điệu, nghèo nàn, học sinh sẽ rất ngại học, chán học. Bởi thế, bên cạnh việc chủ động chọn nội dung, thời lượng thích hợp thì giáo viên CN quan tâm đến việc làm phong phú các hình thức dạy học nhằm chống chán, tạo nhu cầu học cho học sinh và để phát huy tốt nhất vai trò chủ động sáng tạo, ý thức tự học, tự rèn của học sinh. Chẳng hạn, trong một tiết học buổi 2, giáo viên có thể đan xen giữa hình thức học cá nhân, học nhóm, học cả lớp, thay đổi giữa các bài tập dạng trắc nghiệm, bài tập tự luận, câu đố, xen kẽ giữa việc dùng các đồ dùng học tập như bảng con, phiếu bài tập, vở ô ly,Cụ thể 1 số tiết trên lớp, cụ thể có 1 số tiết ngoài không gian phòng học, hay qua các sân chơi trí tuệ, qua các cuộc thi, Thế nhưng dù ở hình thức nào, dù phương pháp nào cũng cần đảm bảo: + Không ảnh hưởng đến thời lượng các tiết đó được cơ cấu cứng ở buổi 2. + Tạo niềm tin, ổn định tâm lý, tạo tâm thế, nhu cầu học cho học sinh. + Cách thức dạy học kết hợp nghệ thuật chủ nhiệm phù hợp với tính cách, năng lực, đặc điểm tâm lý, hoàn cảnh từng học sinh để mọi học sinh đều thích . Cách dạy nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép vào khuôn khổ người lớn, phải đặc biệt chú ý gìn giữ sức khỏe của các cháu”. Đúng vậy, ta phải giáo dục HS có lòng nhân ái, có kiến thức, kỹ năng nhưng bằng phương pháp nhẹ nhàng hiệu quả. Như vậy, với 1 số hình thức, phương pháp dạy học, 1 tiết dạy buổi 2 diễn ra nhẹ nhàng trong bầu không khí thi đua sôi nổi. Trong dạy học tôi luôn “làm mới”, luôn “dễ hoá” (cho HS yếu) mà không hạ chuẩn để thu hút HS. Ở đây, các đối tượng đều được luyện kỹ năng ở các mức độ khác nhau. Và cái được hơn nữa là các em được luyện kỹ năng sống, được trải nghiệm qua giao tiếp. *GIẢI PHÁP 4: Mạnh dạn điều chỉnh thời lượng, kết hợp đan xen các tiết học một cách hợp lý, tích hợp các kiến thức ở các lĩnh vực qua các sân chơi trí tuệ cho HS. Ngoài những tiết Ôn luyện riêng biệt cho từng phân môn mà GV đó linh hoạt chọn các phương pháp, đa dạng hóa các hình thức lên lớp thì việc tạo những sân chơi trí tuệ cho HS cũng vô cùng quan trọng bởi lúc đó các em được ôn kiến thức, được luyện kỹ năng, được phát triển toàn diện trong không khí thi đua sôi nổi, vui tươi, lành mạnh. Thực tế, thời khóa biểu nhà trường đó xây dựng nhằm đảm bảo mục tiêu giáo dục toàn diện cho HS rất cụ thể cho từng lớp. Song, trong quá trình dạy học ở buổi 2, ở một số buổi học (có thể 1 tháng 1 lần) ta có thể đan xen các tiết vào nhau, xâu chuỗi các tiết tạo thành 1 buổi sinh hoạt câu lạc bộ (câu lạc bộ toán học, câu lạc bộ âm nhạc, câu lạc bộ mỹ thuật...), 1 buổi sinh hoạt ngoài giờ lên lớp, 1 sân chơi trí tuệ cho HS rất thú vị và hiệu quả. Vậy là với việc đan xen các tiết học, tạo sân chơi trí tuệ cho HS GVCN tạo không khí cho các em rất vui vẻ, háo hức tham gia. Các em được rèn trí nhớ, trí thông minh, khả năng phân tích và khái quát, và tính hợp tác tương trợ nhau. * Tuy nhiên những tiết này không tiến hành nhiều, một năm chỉ 2–3 lần. Nếu lạm dụng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng các môn cần luyện kỹ năng cốt lõi và GV cũng không tránh khỏi những khó khăn nhất định. * GIẢI PHÁP 5: Phối hợp các lực lượng GD a. Tranh thủ sự hợp tác của đồng nghiệp. - Trong sinh hoạt tổ chuyên môn, một nội dung không thể thiếu là dự kiến nội dung, thời lượng dạy học cho tuần sau. GV trong tổ trao đổi, thảo luận, góp ý, bổ sung cho nhau để chọn những nội dung dạy buổi 2 chất lượng hơn (tuy nhiờn phải phự hợp với từng lớp). Ngoài ra, GV dạy buổi 1 “bàn giao” 1 số vấn đề về nội dung cũn lại ở buổi 1 (không được lạm dụng quỹ thời gian của buổi 2 để kiến thức buổi 1 lại) mà không thể lên lớp hết được. Trao đổi về mức độ tiếp thu bài của từng em, từ đó các GV có biện pháp dạy học phự hợp với từng HS. Một số ít HS học yếu, lười học, ngại học, ít nghe lời GV dạy buổi 2 hơn GV chủ nhiệm thì người dạy buổi 2 phải dùng nhiều biện pháp, nghệ thuật thu hút HS ... b. Phối hợp với giáo viên bộ môn: Ở một số buổi 2, một số tiết năng khiếu, tự chọn được cơ cấu cứng, các GV nên trao đổi sau từng tuần để có thời gian thích hợp cho từng tiết (nếu cần). c. Phối hợp với Tổng phụ trách trong hoạt động Đội – Sao: - Mỗi tiết học hiệu quả hơn nếu nề nếp lớp học tốt. Bởi vậy, cần phối hợp với ban thi đua yêu cầu chấm điểm về nề nếp lớp học và trao đổi các hoạt động ngoài giờ lên lớp phù hợp. - Trong sinh hoạt 15 phút, tôi mạnh dạn định hướng cho các em phụ trách sao (HS lớp 4-5) đến giao lưu với học sinh lớp tôi bằng Tiếng Anh một số câu giao tiếp hàng ngày đơn giản; hay kiểm tra bảng cửu chương, kỹ năng tính toán, thi vẽ tranh. Vậy là chỉ 15 phút sinh hoạt Sao đầu buổi học các em được rèn rất nhiều kỹ năng nhờ vào anh chị phụ trách Sao. d. Phối hợp với cha mẹ học sinh: - Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, việc phát triển nhân cách toàn diện cho HS càng thuận lợi. * GIẢI PHÁP 7: Xây dựng môi trường sư phạm thân thiện. Môi trường sư phạm thân thiện sẽ nâng cao chất lượng GD. Khi trong lớp tràn đầy tình yêu thương, khi GV quan tâm đặc biệt đến HS, khi HS tôn trọng lẫn nhau thì tác động tốt đến kết quả dạy học. Vì vậy: - Cần xây dựng tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong lớp, HS khá giỏi luôn biết giúp đỡ HS yếu qua phong trào “Đôi bạn cùng tiến”, “Giúp bạn”,... - GV cần dành cho các em sự gần gũi nhất. - Tạo 1 lớp học: gọn, đẹp, khang trang, dùng 4 bức tường để trưng bày sản phẩm, để HS được thể hiện, được học,... Trong lớp, GV phải tạo niềm tin cho học sinh, GV vừa là mẹ, vừa là người bạn lớn, phải mẫu mực, gần gũi, yêu thương, thân thiện, chia sẻ với học sinh. Tóm lại: Những việc làm dù là nhỏ nhất của học sinh, của giáo viên góp phần xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn; trong dạy học giúp các em tự tin hơn; rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh; cho các em có những hoạt động vui tươi lành mạnh; cho các em tìm hiểu, chăm sóc các di tích lịch sử, văn hoá cách mạng ở địa phương, Giải pháp xử lý tình huốn sư phạm của người giáo viên chủ nhiệm trong hoạt độngphối hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh: - Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, việc phát triển nhân cách toàn diện cho HS càng thuận lợi. Vì vậy việc phối hợp với hội phụ huynh rất cần thiết. Cụ thể sau 1 đợt thi đua, sau 1 tháng, 1 chủ điểm,... đại diện chi hội phụ huynh của lớp đến tham dự 1 số tiết sinh hoạt để nắm bắt, lắng nghe, trao đổi bàn bạc các biện pháp thông tin 2 chiều thì chất lượng giáo dục sẽ tốt. - Từ đầu năm, GVCN làm công tác tham mưu với chi hội phụ huynh, nêu rõ định hướng hoạt động của lớp trong năm học, xin ý kiến bổ sung và đặt vấn đề về sự ủng hộ của phụ huynh về kinh phí khen thưởng cho học sinh qua các cuộc thi: “ Giao lưu học sinh giỏi”, thi “Giải toán qua mạng”, giao lưu Toán tuổi thơ, thưởng cho học sinh yếu có nhiều tiến bộ, thưởng cho học sinh có thành tích nổi bật, Tất cả quỹ khuyến học của lớp do chi hội phụ huynh tự thu, chi, công bố rõ sau mỗi lần họp phụ huynh. - Sau từng buổi dạy, tôi ghi cụ thể về từng học sinh cần đặc biệt quan tâm như: em có tiến bộ vượt trội trong học tập, những em học sa sút, những em có nguy cơ yếu Tối về điện thoại trao đổi với từng gia đình phụ huynh. Làm tốt việc phối hợp với cha mẹ học sinh tôi cảm thấy rất vui, học sinh tiến bộ rõ rệt. Giải pháp xử lý tình huốn sư phạm của người giáo viên chủ nhiệm với công tác giáo dục học sinh cá biệt: III. Một số giải pháp cụ thể 1. Vai trò của GVCN đối với công tác tổ chức lớp Trong công tác chủ nhiệm, nếu làm đúng vai trò trách nhiệm thì người thầy phải bỏ ra nhiều thời gian, rất vất cả trong việc theo dõi, quản lý lớp. Nếu rơi vào những lớp đa số là học sinh khá giỏi (như lớp cơ bản A, cơ bản C) thì các em có ý thức học tập rất tốt, hạn chế tối thiểu học sinh cá biệt giúp cho GVCN bớt đi phần gánh nặng. Nhưng đối với những lớp phần lớn là học sinh trung bình, học sinh lưu ban thì đòi hỏi người GVCN phải tốn nhiều thời gian công sức mới làm tốt nhiệm vụ được giao, vì học sinh cá biệt xuất phát từ những lớp đó. Do đó người giáo viên muốn làm tốt công tác của mình trước hết phải làm tốt công tác tổ chức lớp, thực hiện một số công việc sau: *Xếp chỗ ngồi: GVCN phải xem trước học bạ của từng học sinh tron
File đính kèm:
- MO_DUN_36.doc