Bài viết thu hoạch Việc học tập, quán triệt và thực hiện nghị quyết đại hội lần thứ XII của Đảng cộng sản Việt Nam - Trường mầm non Nam Phong

- Các nhiệm vụ trọng tâm:

+ Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

+ Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

+ Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.

 

doc8 trang | Chia sẻ: xuannguyen98 | Lượt xem: 593 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài viết thu hoạch Việc học tập, quán triệt và thực hiện nghị quyết đại hội lần thứ XII của Đảng cộng sản Việt Nam - Trường mầm non Nam Phong, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g Đảng, Bộ Chính trị đã quyết định điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng; bảo đảm quốc phòng - an ninh và ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế; tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng cao hơn ở những năm cuối của kế hoạch 5 năm.
- Những thành quả đạt được: "Nhìn tổng quát, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành quả quan trọng". Đánh giá như vậy là phù hợp, đúng mức, phản ánh được cả những nỗ lực, cố gắng của chúng ta trong bối cảnh khó khăn, phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, cũng như cả những yếu kém, khuyết điểm cần được khắc phục. Được thể hiện trên các mặt sau đây:
+ Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô dần ổn định.
+ Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm trước; chất lượng tăng trưởng được nâng lên.
+ Ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt kết quả tích cực.
+ Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt kết quả tích cực bước đầu.
+ Văn hoá, xã hội có bước phát triển, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.
+ Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu có những chuyển biến tích cực.
+ Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, hoà bình, ổn định được giữ vững để phát triển đất nước.
+ Quan hệ đối ngoại, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao.
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy.
+ Tiếp tục hoàn thiện quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
+ Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng và đạt một số kết quả quan trọng.
- Những hạn chế, khuyết điểm:
+ Đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện.
+ Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được.
+ Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao; sản xuất kinh doanh còn gặp rất nhiều khó khăn.
+ Kinh tế tăng trưởng thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
+ Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, chưa có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát triển; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, tiếp tục là những yếu tố cản trở phát triển.
+ Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm.
+ Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, văn hoá, xã hội chậm được khắc phục.
+ Ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường còn bất cập.
+ Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,... chưa được ngăn chặn và đẩy lùi; tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp.
+ Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nhiều mặt còn hạn chế. Quản lý xã hội còn một số mặt bất cập.
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, phép nước chưa nghiêm.
+ Một số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chuyển biến chậm.
+ Công tác dự báo, hoạch định và lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý phát triển xã hội còn nhiều bất cập.
+ Hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động, hiệu quả chưa cao.
+ Một số mặt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chuyển biến chậm.
+ Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
+ Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
+ Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "tụt hậu xa hơn về kinh tế" và nguy cơ "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.
VỀ MỤC TIÊU TỔNG QUÁT PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 5 NĂM (2016 - 2020)
 Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
- Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD; tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 - 34% GDP; bội chi ngân sách nhà nước còn khoảng 4% GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30 - 35%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 - 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hoá đến năm 2020 đạt 38 - 40%.
- Về xã hội: Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; có 9 - 10 bác sĩ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm.
- Về môi trường: Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất thải y tế được xử lý; tỉ lệ che phủ rừng đạt 42%.
- Các nhiệm vụ trọng tâm:
+ Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
+ Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
+ Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
+ Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
+ Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh.
2. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung Ương 4 về xây dựng Đảng:
 Chúng ta có thể khẳng định rằng: Những kết quả qua 4 năm thực hiện Nghị quyết tuy chưa được như mong muốn, nhưng đã tạo được một số chuyển biến quan trọng bước đầu về công tác xây dựng Đảng, thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất: Góp phần củng cố, nâng cao và thống nhất nhận thức tư tưởng trong Đảng về tình hình Đảng và công tác xây dựng Đảng hiện nay. Thông qua việc tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương một cách nghiêm túc ở các cấp, đã trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng; giúp cho các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức về vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng; thấy rõ và sâu sắc ý nghĩa quan trọng, sự cần thiết phải thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và nhận diện rõ hơn những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Từ đó, mỗi cán bộ, đảng viên xác định trách nhiệm của mình, nêu cao ý thức tự giác, gương mẫu trong việc thực hiện Nghị quyết.
- Thứ hai: Đã góp phần đấu tranh, ngăn chăn, đẩy lùi được một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Qua việc chuẩn bị và tổ chức kiểm điểm, tự phê bình, phê bình tập thể, cá nhân và lắng nghe, tiếp thu ý kiến góp ý trước kiểm điểm, là dịp để mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên tự nhìn nhận, soi xét lại bản thân mình, thấy rõ ưu điểm để phát huy và hạn chế, khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục; đồng thời, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm, từ đó tự điều chỉnh nhận thức, hành vi của bản thân, của vợ (chồng), con và người thân. Qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, kết hợp với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; với công tác thanh tra, kiểm toán của Nhà nước và công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật, chỉ tính trong 3 năm (2012, 2013, 2014), toàn Đảng đã xử lý kỷ luật hơn 54.000 đảng viên ở các cấp và xóa tên, cho ra khỏi Đảng hàng nghìn trường hợp khác, đã có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe và phòng ngừa sai phạm; siết lại kỷ cương, kỷ luật, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi được một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, góp phần làm trong sạch nội bộ Đảng.
- Thứ ba: Đã kịp thời sửa chữa, khắc phục được một số hạn chế, khuyết điểm, yếu kém kéo dài trên một số lĩnh vực của công tác xây dựng Đảng. Sau kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên đều xây dựng và thực hiện kế hoạch sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm đã được kết luận qua tự phê bình và phê bình. Do vậy, một số hạn chế, khuyết điểm, yếu kém về công tác tổ chức cán bộ đã từng bước được khắc phục. Nhiều vụ, việc nổi cộm, bức xúc trong xã hội về quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; trong quản lý xây dựng, trật tự đô thị và một số vụ tranh chấp, khiếu kiện kéo dài đã được giải quyết. Nhiều cấp ủy đã quy định cụ thể về việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; quy định cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên phải tham dự sinh hoạt với chi bộ ở địa bàn dân cư định kỳ tiếp xúc, đối thoại với nhân dân tại cơ sở...
- Thứ tư: Đã tạo được một số chuyển biến mới tích cực về công tác cán bộ, nhất là ở cấp Trung ương. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã rà soát, đánh giá và sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, nhất là đối với những cán bộ, đảng viên có khuyết điểm qua tự phê bình và phê bình hoặc tín nhiệm thấp. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp được tăng cường và đẩy mạnh hơn. Lần đầu tiên, Ban Chấp hành Trung ương đã xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Bộ Chính trị đã quyết định tổ chức 02 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho hơn 150 đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; 06 lớp bồi dưỡng cán bộ dự nguồn cao cấp cho hơn 500 đồng chí; 03 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ theo chức danh cho hơn 170 đồng chí bí thư cấp ủy cấp huyện; điều động, luân chuyển và sắp xếp, bố trí lại nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức và trong quy hoạch ở Trung ương và các địa phương, phục vụ cho công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ cấp tỉnh nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Đại hội lần thứ XII của Đảng.
- Thứ năm: Nguyên tắc tập trung dân chủ tiếp tục được cụ thể hoá nhằm xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành một số văn bản quan trọng về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã tiến hành rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định đã có cho phù hợp; đồng thời ban hành một số quy chế, quy định mới nhằm phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng và đề cao trách nhiệm, thẩm quyền của người đứng đầu; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa cấp ủy, ban thường vụ và thường trực cấp ủy; thực hiện quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; đã thực hiện việc chất vấn trong các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương và cấp ủy các cấp. Triển khai thực hiện Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Nhiều cấp ủy đã coi trọng cải tiến phong cách, lề lối làm việc, đổi mới việc ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết; coi trọng việc sơ kết, tổng kết thực hiện các nghị quyết của cấp trên và của cấp mình; tích cực cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy.
- Thứ sáu: Quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 được kết hợp chặt chẽ với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã đem lại một số kết quả cụ thể, thiết thực. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được tăng cường và đẩy mạnh hơn. Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định thành lập lại Ban Nội chính Trung ương; kiện toàn Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban và tập trung chỉ đạo quyết liệt vấn đề này. Do vậy, nhiều văn bản chỉ đạo về đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được thể chế hóa bằng pháp luật; nhiều vụ việc tham nhũng lớn, nghiêm trọng và phức tạp kéo dài ở Trung ương và các địa phương đã sớm được điều tra, khởi tố, truy tố và xét xử công khai với những bản án nghiêm khắc dành cho các bị cáo, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, tin tưởng vào quyết tâm đấu tranh, đẩy lùi tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta.
 Như vậy, trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức; tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến nhanh và phức tạp, những chuyển biến tích cực về công tác xây dựng Đảng qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm an sinh xã hội và thúc đẩy thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; góp phần quan trọng vào sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020. Mặt khác, cũng qua chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, các cấp ủy, tổ chức đảng đã tích lũy thêm kinh nghiệm về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới hiện nay.
 Có được những kết quả nêu trên là do: Nghị quyết Trung ương 4 là một chủ trương đúng đắn, kịp thời, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, tích cực tham gia. Trong quá trình thực hiện Nghị quyết, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, bài bản, khoa học, cụ thể với quyết tâm chính trị cao và có một số đổi mới về nội dung, cách làm so với trước, đem lại hiệu quả cụ thể, thiết thực. Có sự tham gia tích cực của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở các cấp; sự gương mẫu, nghiêm túc, tự giác trong kiểm điểm, tự phê bình, phê bình và sửa chữa khuyết điểm của tập thể, cá nhân các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư là tấm gương để cấp dưới và cán bộ, đảng viên học tập, noi theo.
3. Liên hệ tại cơ quan, đơn vị
 Trường Mầm non Nam Phong là đơn vị thuộc Phòng GD&ĐT Tuyên Hóa quản lý trực tiếp, thực hiện chức năng quản lý công tác giáo dục. Trường được giao biên chế 18 người, trong đó: Biên chế: 16 đồng chí; hợp đồng: 02 đồng chí. 
- Về trình độ chuyên môn:
+ Đại học : 11 Đồng chí. 
+ Cao đẳng: 02 đồng chí.
+ Trung cấp 05 đồng chí.
+ Lý luân chính trị: Trung cấp 03 đồng chí.
- Về chât lựong đội ngũ:
 Nhìn chung chất lựơng CBGVNV vụ cơ bản đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệt tình với công việc, có bản lĩnh chính trị vững vàng.
* Tình hình thực hiện nhiệm - Những kết quả đạt được 
 Trong năm qua bản thân tôi ngoài công việc chuyên môn giao là giảng dạy lớp lớn,
Trường Mầm non Nam Phong. Ngoài ra tôi đã bám sát các văn bản hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học của Ngành, của Sở GD&ĐT để chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động, chỉ đạo chuyên môn xây dựng kế hoạch chương trình phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và triển khai thực hiện đạt hiệu quả cao, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ.
 Làm tốt công tác tham mưu với các tuyên truyền tới bậc phụ huynh tham gia học tập các nghị quyết của Đảng., thực hiện tốt các quy định ở địa phương 
 Công tác phổ cập giáo dục Mầm non cho trẻ 5 tuổi đạt hiệu quả cao: Xã được công nhận xã đạt chuẩn phổ cập cho trẻ 5 tuổi.
 Tôi luôn hưởng ứng tích cực các cuộc vận động nhân đạo từ thiện do các ban ngành cấp trên phát động. 
- Tồn tại, hạn chế:
 Bên cạnh những kết mà bản thân tôi đạt được trong năm học qua, tôi cũng có một số mặt hạn chế: Trong sinh hoạt Đảng còn chưa mạnh dạn trong công tác phê và tự phê 
- Nguyên nhân: 
 Do bản tính nhút nhát và trong công việc còn có chút nể nang 
- Giải pháp thực hiện trong thời gian tới:
 Trong văn kiện đại hội XII lần này, kế thừa quan điểm chỉ đạo của nhiệm kỳ trước, Đảng ta đã đưa ra đường lối đổi mới căn bản toàn diện giáo

File đính kèm:

  • docbai_thu_hoach_hoc_tap_nq_dh_XII.doc
Giáo án liên quan