Bài thu hoạch Bồi dưỡng thương xuyên - Module 1: Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THCS - Nông Thị Mỹ

 a. Sự phát triển cơ thể.

 - Bước vào tuổi thiếu niên có sự cải tổ lại hết sức mạnh mẽ và sâu sắc về cơ thể, về sinh lí. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển cơ thể của cá nhân. Đây là giai đoạn phát triển nhanh thứ hai, sau giai đoạn sơ sinh.

 * Sự phát triển của chiều cao và trọng lượng:

 Chiều cao của các em tăng rất nhanh: trung bình một năm, các em gái cao thêm 5 - 6 cm, các em trai cao thêm 7 - 8 cm. Trọng lượng của các em tăng từ 2 - 5kg /năm, sụ tăng vòng ngực của thiếu niên trai và gái.

 * Sự phát triển của hệ xương:

 - Hệ xương đang diễn ra quá trình cốt hóa về hình thái, làm cho thiếu niên lớn lên rất nhanh, xương sọ phần mặt phát triển mạnh. Ở các em gái đang diễn ra quá trình hoàn thiện các mảnh xương chậu (chứa đựng chức năng làm mẹ sau này) và kết thúc vào tuổi 20 – 21. Bởi vậy, cần tránh cho các em đi giày, guốc cao gót, tránh nhảy quá cao để khỏi ảnh hưởng đến chức năng sinh sản của các em. Mặc khác trong sự phát triển hệ xương chân, xương tay phát triển nhanh nhưng xương cổ tay và các đốt ngón tay chưa hoàn thiện nên các thao tác hành vi ở các em còn lóng ngóng, làm gì cũng đổ vỡ, hậu đậu. Sự mất cân đối này sẽ diễn ra trong thời gian ngắn, cuối tuổi thiếu niên sự phát triển thể chất sẽ êm ả hơn.

 

docx8 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 546 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài thu hoạch Bồi dưỡng thương xuyên - Module 1: Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THCS - Nông Thị Mỹ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG THCS XÃ TÚ ĐOẠN
 TỔ KHOA HỌC XÃ HỘI 
BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
MODULE 1: ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÍ CỦA HỌC SINH THCS.
 Họ và tên: Nông Thị Mỹ
 Chức vụ: Giáo viên
 Tổ: Khoa học xã hội 
 Giảng dạy môn: Tiếng Anh 7A1,2; 8 A1,2,3
1. Lý do chọn chuyên đề 
Sau khi tự học tự bồi dưỡng thường xuyên Module 1: Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh trung học cơ sở tôi đã tiếp thu được những kiến thức về đặc điểm tâm sinh lí của học sinh ở bậc học THCS và từ đó tôi đã áp dụng những kiến thức lí thuyết này vào công tác giảng dạy, chăm sóc học sinh ở lớp và học sinh trong trường, cụ thể như sau:
2. Nội dung chuyên đề.
 	- Nội dung chính của module gồm những vấn đề sau:
 + Khái quát về giai đoạn phát triển của học sinh THCS.
 + Các điều kiện phát triển tâm lí của HS THCS.
 + Tìm hiểu hoạt động giao tiếp của học sinh trung học cơ sở.
 + Tìm hiểu sự phát triển nhận thức của học sinh trung học cơ sở.
 	+ Tìm hiểu sự phát triển nhân cách của học sinh trung học cơ sở.
 2.1. Khái quát về giai đoạn phát triển của học sinh THCS.
 Lứa tuổi HS THCS bao gồm những em có độ tuổi tù 11 - 15 tuổi. Đó là những em đang theo học tù lớp 6 đến lớp 9 ở trường THCS. Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu nìên và nó có một vị trí đặc biệt trong quá trình phát triển của trẻ em.
 Đây là thời kì quá độ từ tuổi thơ sang tuổi trường thành, thời kì trẻ ở ba đường của sụ phát triển. Trong đó có rất nhiều khả năng, nhiều phương án, nhiều con đường để mỗi trẻ em trở thành một cá nhân. Trong thòi kì này, nếu sự phát triển đuợc định huớng đúng, được tạo thuận lợi thì trẻ em sẽ trở thành cá nhân thành đạt, công dân tốt. Ngược lại, nếu không được định hướng đúng, bị tác động bời các yếu tố tiêu cực thì sẽ xuất hiện hàng loạt nguy cơ dẫn trẻ em đến bên bờ của sự phát triển lệch lạc về nhận thức, thái độ, hành vi và nhân cách.
 Thời kì mà tính tích cực xã hội của trẻ em được phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong việc thiết lập các quan hệ bình đẳng với người lớn và bạn ngang hàng.
 Trong suổt thời kì tuổi thiếu niên đều diễn ra sự cấu tạo lại, cải tổ lại, hình thành các cấu trúc mới về thể chất về sinh lí.
 Tuổi thiếu niên là giai đoạn khó khăn, phúc tạp và đầy mâu thuẫn trong quá trình phát triển.
 2.2. Các điều kiện phát triển tâm lí của HS THCS.
 a. Sự phát triển cơ thể.
 - Bước vào tuổi thiếu niên có sự cải tổ lại hết sức mạnh mẽ và sâu sắc về cơ thể, về sinh lí. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển cơ thể của cá nhân. Đây là giai đoạn phát triển nhanh thứ hai, sau giai đoạn sơ sinh. 
 * Sự phát triển của chiều cao và trọng lượng:
 Chiều cao của các em tăng rất nhanh: trung bình một năm, các em gái cao thêm 5 - 6 cm, các em trai cao thêm 7 - 8 cm. Trọng lượng của các em tăng từ 2 - 5kg /năm, sụ tăng vòng ngực của thiếu niên trai và gái...
 * Sự phát triển của hệ xương:
 - Hệ xương đang diễn ra quá trình cốt hóa về hình thái, làm cho thiếu niên lớn lên rất nhanh, xương sọ phần mặt phát triển mạnh. Ở các em gái đang diễn ra quá trình hoàn thiện các mảnh xương chậu (chứa đựng chức năng làm mẹ sau này) và kết thúc vào tuổi 20 – 21. Bởi vậy, cần tránh cho các em đi giày, guốc cao gót, tránh nhảy quá cao để khỏi ảnh hưởng đến chức năng sinh sản của các em. Mặc khác trong sự phát triển hệ xương chân, xương tay phát triển nhanh nhưng xương cổ tay và các đốt ngón tay chưa hoàn thiện nên các thao tác hành vi ở các em còn lóng ngóng, làm gì cũng đổ vỡ, hậu đậu. Sự mất cân đối này sẽ diễn ra trong thời gian ngắn, cuối tuổi thiếu niên sự phát triển thể chất sẽ êm ả hơn.
 * Sự xuất hiện của tuyến sinh dục (hiện tượng dậy thì):
 - Sự trưởng thành về mặt sinh dục là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển cơ thể của lứa tuổi thiếu niên.
 + Dấu hiệu dậy thì ở em gái là sự xuất hiện kinh nguyệt, sự phát triển tuyến vú. Ở em trai là hiện tượng “vỡ giọng”, sự tăng lên của thể tích tinh hoàn và bắt đầu có hiện tượng “mộng tinh”. Tuổi dậy thì ở các em gái Việt Nam vào khoảng 12 – 14 tuổi, ở các em trai bắt đầu và kết thúc chậm hơn các em gái khoảng từ 1,5 đến 2 năm.
Dấu diệu phụ báo tuổi dậy thì có sự khác nhau giữa các em trai và gái. Các em trai cao rất nhanh, giọng nói ồm ồm, vai to, có ria mép Các em gái cũng lớn nhanh, thân hình duyên dáng, da dẻ hồng hào, tóc mượt mà, môi đỏ, giọng nói trong trẻo
Sự xuất hiện tuổi dậy thì phụ thuộc yếu tố khí hậu, thể chất, dân tộc, chế độ sinh hoạt (vật chất, tinh thần), lối sống Tuy nhiên, hiện nay do gia tốc phát triển thể chất và phát dục nên tuổi dậy thì có thể đến sớm hơn từ 1,5 – 2 năm.
 + Đến 15 – 16 tuồi, giai đoạn dậy thì kết thúc. Các em có thể sinh sản được nhưng các em chưa trưởng thành về mặt cơ thể, đặc biệt về mặt tâm lý và xã hội. Bởi vậy lứa tuổi HS THCS không được coi là có sự cân đối giữa sự phát dục, giữa bản năng tương ứng, những tình cảm và ham muốn tình dục với mức trưởng thành về xã hội và tâm lý. Vì thế, người lớn (cha mẹ, giáo viên, các nhà giáo dục) cần hướng dẫn, trợ giúp một cách khéo léo, tế nhị để các em hiểu đúng vấn đề, biết xây dựng mối quan hệ đúng đắn với bạn khác giới và không băn khoăn lo lắng khi bước vào tuổi dậy thì.
 + Sự phát dục và những biến đổi trong sự phát triển thể chất của tuổi thiếu niên có ý nghĩa quan trọng đối với sự xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới. Những biến đổi rõ rệt về mặt giải phẫu sinh lý đối với thiếu niên đã làm cho các em trở thành một người lớn một cách khách quan và làm nảy sinh cảm giác về tính người lớn của bản thân các em. Sự phát dục làm cho thiếu niên xuất hiện những cảm giác, tình cảm và rung cảm mới mang tính chất giới tính, các em quan tâm nhiều hơn đến bạn khác giới.Tuy nhiên, những ảnh hưởng trên đến sự phát triển tâm lí của HS THCS còn phụ thuộc nhiều yếu tố: kinh nghiệm sống, đặc điểm giao tiếp của thiếu niên, những hoàn cảnh riêng trong cuộc sống và điều kiện giáo dục (gia đình và nhà trường) đối với các em	
 2. 3.Tìm hiểu hoạt động giao tiếp của học sinh THCS.	
 Giao tiếp là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi ở lứa tuổi thiếu niên. Lứa tuổi thiếu niên có những sự thay đổi rất cơ bản trong giao tiếp của các em với người lớn và với bạn ngang hàng. Theo một nghiên cứu, HS THCS dành 1 nửa thời gian của mình cho bạn bè và khoảng 5% cho cha mẹ.
 * Giao tiếp với người lớn: gồm những đặc điểm sau:
 - Thứ nhất: các em có nhu cầu được tôn trọng cao trong quá trình giao tiếp với người lớn. Các em đòi hỏi được bình đẳng, tôn trọng, được đối xử như người lớn, được hợp tác, cùng hoạt động với người lớn. Nếu người lớn ra lệnh với các em thì bằng cách này hay cách khác sẽ xuất hiện thái độ phản ứng tiêu cực, công khai hoặc ngấm ngầm. Mặt khác, các em có khát vọng độc lập, được khẳng định, không thích sự quan tâm, can thiệp của người lớn, không thích có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của người lớn. Rất dễ dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, xung đột trong gia đình (lời nói, việc làm, bỏ nhà ra đi)
 - Thứ hai: trong quan hệ với người lớn, ở thiếu niên thường xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Do sự phát triển mạnh về thể chất và tâm lý nên trong quan hệ với người lớn, thiếu niên có nhu cầu thoát ly khỏi sự giám sát của người lớn, muốn độc lập. Tuy nhiên do địa vị còn lệ thuộc, do chưa có nhiều kinh nghiệm ứng xử và giải quyết vấn đề liên quan trực tiếp tới hoạt động và tương lai cuộc sống nên các em vẫn có nhu cầu được người lớn gần gũi, chia sẻ và định hướng cho mình, làm gương để mình noi theo. Mặt khác là mâu thuẫn giữa sự phát triển nhanh, bất ổn định về thể chất, tâm lý và vị thế xã hội của trẻ em với nhận thức và hành xử của người lớn không kịp sự thay đổi đó. Vì vậy người lớn vẫn thường có thái độ và cách cư xử với các em như với trẻ nhỏ.
 - Thứ ba: trong tương tác với người lớn, thiếu niên thường cường điệu hóa các tác động của người lớn trong ứng xử hằng ngày. Các em thường suy diễn, thổi phồng, cường điệu hóa quá mức tầm quan trọng của các tác động đó, đặc biệt là đến danh dự và lòng từ trọng của các em. Trong khi đó, hành vi của chính các em có thể gây hậu quả đến tính mạng mình lại thường bị các em coi nhẹ. Vì vậy, chỉ cần một sự tác động của người lớn làm tổn thương chút ít đến các em thì trẻ thiếu niên coi đó là sự xúc phạm lớn, sự tổn thất hồn nghiêm trọng, từ đó dẫn đến các phản ứng tiêu cực cường độ mạnh.
 * Giao tiếp giữa thiếu niên với nhau:
 - Ở tuổi thiếu niên, giao tiếp với bạn trở thành một hoạt động riêng và chiếm vị trí quan trọng trong đời sống các em. Nhiều khi giá trị này cao đến mức đẩy lùi học tập xuống hàng thứ 2 và làm cho các em sao nhãng việc giao tiếp với người thân.
Các em giao tiếp với bạn để khẳng định mình, trao đổi những nhận xét, tình cảm, ý chí, tâm tư, khó khăn của mình trong quan hệ với bạn, với người lớn. các em mong muốn có bạn thân để chia sẻ, giải bày tâm sự, vướng mắc, băn khoăn.
 - Trong cuộc sống hằng ngày, các em không thể không có bạn. Sự tẩy chay của bạn bè, của tập thể có thể thúc đẩy các em sửa chữa để hòa nhập với bạn, cũng có thể làm cho các em tìm kiếm và gia nhập nóm bạn ngoài đường; hoặc nảy sinh các hành vi tiêu cực như phá phách, gây hấnhoặc cũng có thể khiến các em cảm thấy bế tắc và chán nản.
 - Thiếu niên coi quan hệ với bạn là quan hệ riêng cá nhân và các em muốn được độc lập, không muốn người lớn can thiệp. Người bạn kết giao phải là người tôn trọng, trung thực, cởi mở, hiểu biết và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau.Thiếu niên yêu cầu rất cao về phía bạn cũng như bản thân. Vì vậy, các em thường lên án những thái độ và hành vi từ chối giúp bạn, ích kỷ, tham lam, tự phụ, hay nói xấu bạn, nịnh bợ.
 - Sắc thái giới tính trong quan hệ với bạn ở thiếu niên: sự dậy thì kích thích thiếu niên quan tâm đến bạn khác giới. Xuất hiện những rung động, những cảm xúc mới lạ với bạn khác giới. Sự quan tâm đến bạn khác giới có ý nghĩa đối với sự phát triển nhân cách HS THCS: có tể động viên những khả năng của thiếu niên, gợi nên những nguyện vọng tốt. Trong giao tiếp với bạn khác giới, các em cũng thể hiện mâu thuẫn giữa ý muốn, nhu cầu với hành vi thể hiện (có nhu cầu giao tiếp với bạn khác giới nhưng lại cố ngụy trang ý muốn, che giấu nội tâm của mình). Các bạn nam thể hiện khá mạnh mẽ, đôi khi còn thô bạo, “gây sự” với bạn nữ để bạn chú ý tới mình. Các em nữ thường kín đáo, tế nhị hơn (các em thường chú ý đến hình thức của mình, trang phục, cách ứng xử, che giấu, tình cảm của mình)
 2.4. Tìm hiểu sự phát triển về nhận thức của học sinh THCS.
 * Sự phát triển tri giác:
 Ở HS THCS, khối lượng các đối tượng tri giác tăng lên rõ rệt. Tri giác có trình tự, có kế hoạch và hoàn thiện hơn. Các em có khả năng phân tích và tổng hợp phức tạp khi tri giác sự vật, hiện tượng. 
Sự tri giác của HS còn 1 số hạn chế: thiếu kiên trì, còn vội vàng, hấp tấp trong tri giác, tính tổ chức, tính hệ thống trong tri giác còn yếu.
 *Sự phát triển trí nhớ:
 Ghi nhớ chủ định, ghi nhớ ý nghĩa, ghi nhớ logic dần được chiếm ưu thế hơn ghi nhớ máy móc. 
 Nếu trước đây các em học sinh tiểu học thường cố gắng ghi nhớ từng chữ từng bài thì bây giờ học sinh THCS thường phản đối yêu cầu của giáo viên bắt học thuộc lòng và có khuynh hướng muốn tái hiện bằng lời nói của mình.
 * Sự phát triển chú ý:
 Chú ý có chủ định phát triển mạnh. Sức tập trung chú ý cao hơn, khả năng duy trì chú ý được lâu bền hơn so với nhi đồng, khả năng di chuyển sự chú ý từ thao tác này đến thao tác kia cũng được tăng cượng. Chú ý của các em phụ thuộc vào tính chất đối tượng và mức độ hứng thú với đối tượng. Chính vì thế các em có thể tập trung vào giờ học này nhưng lại lơ đễnh vào giờ khác.
 Mặt khác, chú ý có chủ định của các em chưa bền vững, dễ bị ấn tượng và rung động mạnh mẽ, phong phú làm phân tâm.
 * Sự phát triển tư duy:
 Chuyển từ tu duy cụ thể sang tư duy trừu tượng. Đầu cấp THCS thì tư duy cụ thể vấn phát triển mạnh và giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc tư duy. Sang cuối cấp THCS, tư duy trừu tượng phát triển mạnh. Biết phân tích tài liệu một cách đầy đủ, sâu sắc, đi vào bản chất.
 *Sự phát triển tưởng tượng và ngôn ngữ: 
 - Khả năng tượng tưởng khá phong phú nhưng còn bay bổng, thiếu thực tiễn.
 - Ngôn ngữ của HS THCS đang phát triển mạnh, vốn từ tăng lên rõ rệt. Ngôn ngữ phức tạp hơn, từ vựng phong phú, logic chặt chẽ hơn.
 - Tuy nhiên còn hạn chế: khả năng dùng từ để biểu đạt ý nghĩa còn hạn chế, các em dùng từ chưa chính xác, chưa chú ý cách diễn đạt theo cấu trúc ngữ pháp chặt chẽ, một số em thích dùng từ cầu kỳ bóng bẩy nhưng sáo rỗng do ý muốn bắt chước người lớn, hoặc sử dụng một số thành ngữ dung tục.
 2.5. Tìm hiểu sự phát triển nhân cách của học sinh THCS.
 * Tự ý thức:
 - Bắt đầu tự nhận thức những hành vi của mình (từ hành vi riêng lẻ toàn bộ hành vi và nhận thức về phẩm chất đạo đức, tích cách và khả năng)
 - Nhu cầu so sánh mình với người khác, xem xét và muốn vạch ra một nhân cách tương lai.
 - Đánh giá khả năng bản thân, tìm kiếm vị trí của mình trong tập thể.
 - Từ nhận xét của người khác tự nhìn nhận bản thân mình
 - Kỹ năng chưa đầy đủ để phân tích đúng đắn sự biểu lộ của nhân cách đánh giá mình và người khác còn phiến diện
 * Sự phát triển nhận thức đạo đức và hành vi ứng xử của học sinh THCS:
 - Tuổi THCS là tuổi hình thành thế giới quan, lý tưởng, niềm tin đạo đức, những phán đoán giá trịDo sự mở rộng các quan hệ xã hội, sự phát triển tự ý thức, đạo đức của các em phát triển mạnh. HS biết cách sử dụng những nguyên tắc riêng, các quan điểm, các sáng kiến để chỉ đạo hành vi.
 - Có một số kinh nghiệm và khái niệm đạo đức đuợc hình thành tự phát ngoài sự hướng dẫn của giáo dục (sách báo, phim ảnh, bạn bè) do đó các em có thể có những ngộ nhận, hiểu biết phiến diện, không chính xác về các khái niệm đạo đức. Cần lưu ý điều này trong giáo dục đạo đức cho các em.
 * Sự hình thành tình cảm:
 - Tình cảm: dễ xúc động, kích động, thất thường, bồng bột, dễ thay đổi, đôi khi còn mâu thuẫn. Tình cảm bạn bè, tình đồng chí, tình tập thể ở lứa tuổi này phát triển mạnh. Các em đối xử với nhau chân thành, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn. Các em tin tưởng và kể cho nhau nghe những câu chuyện thầm kín. Các em không thể không có bạn. Vì thế khi bị bạn phê bình các em cảm thấy khổ tâm, buồn phiền, đặc biệt những em bị bạn bè không chơi, tẩy chay thì đó là một đòn tâm lý nặng nề đối với các em.
 3. Vận dụng kiến thức lí thuyết vào thực tiễn.
 Bản thân tôi đang là giáo viên đứng lớp giảng dạy môn Tiếng Anh của trường THCS xã Tú Đoạn, qua học tập module tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lí của học sinh trong học cơ sở, tôi đã hiểu sâu hơn tâm sinh lí của các em học sinh trong lớp chủ nhiệm và học sinh của nhà trường. Từ học tập kiến thức lí thuyết tôi đã áp dụng vào việc tìm hiểu, nắm bắt tâm tư, nguyệt vọng của các em học sinh thông qua những việc làm sau:
 - Đối với học sinh: Tôi luôn quan tâm và tìm hiểu hoàn cảnh và những thay đổi, những tác động của gia đình đến học sinh để hiểu biết những đặc điểm của từng em học sinh (về sức khỏe, sinh lý, trình độ nhận thức, năng lực hoạt động, năng khiếu, sở thích, nguyện vọng, quan hệ xã hội, bạn bè.). 
 - Thường xuyên trao đổi với gia đình của các em để hiểu rõ hơn về tâm tư, suy nghĩ của các em.
  Thông qua các giờ học chính khoá hay ngoại khoá tôi thường giúp các em học sinh xác định rõ động cơ học tập để các em tự giác trong học tập và rèn luyện, tránh tình trạng học sinh đến trường vì bố mẹ ép buộc.
 -Trong các giờ học, giờ vui chơi tôi thường dạy cho các em những bài học đạo đức nhỏ như biết cách chào hỏi lễ phép, cách ăn uống lịch sự, biết nói lời xin lỗi, lời cảm ơn trong những tình huống khác nhau của cuộc sống. 
	 - Trong các buổi sinh hoạt lớp tôi thường dành ra 1 chút thời gian để trò chuyện và tìm hiểu về suy nghĩ và tính cách của từng học sinh.
 - Đối với học sinh trong trường: Thông qua các buổi trực ban, các buổi lao động tôi luôn gần gũi, cởi mở nói chuyện với các em học sinh để từ đó các em cảm thấy thầy cô giáo là người rất gần gũi để các em có thể dễ dàng tâm sự mọi chuyện trong học tập và trong sinh hoạt.
 - Tôi thường nhắc nhở các em giữ gìn vệ sinh cá nhân đặc biệt quan tâm hơn đến những học sinh nữ đến tuổi dậy thì hướng dẫn các em biết cách chăm sóc, giữ gìn vệ sinh thân thể. 
 	 - Do sự phát triển tâm sinh lí của các em ở độ tuổi dậy thì đã xuất hiện tình cảm giữa những bạn khác giới nên giáo viên cũng cần hướng các em vào tình bạn trong sáng lành mạnh, tránh tình trạng yêu sớm.
 - Hầu hết các em học sinh được sống rất tự do ở nhà nên khi hoà nhập với cuộc sống tập thể gặp một số khó khăn. Các em thích sống tự do, không thích gò bó chặt chẽ vì thế các em có những thói quen chưa tốt như: chậm chạp, luộm thuộm, thiếu tập trung, không có tinh thần tự học..... Do các em học sinh có rất ít vốn từ ngữ phổ thông và còn ảnh hưởng của việc sử dụng ngôn ngữ địa phương nên các em nói năng còn chưa tế nhị, hay nói trống không, cộc lốc, không thưa gửi điều này cũng khiến một số em ngại tiếp xúc, ngại trao đổi với người lớn và thầy cô giáo về những tâm tư, nguyện vọng của mình. Trong những trường hợp như vậy tôi luôn nhắc nhở các em cách cư xử để các em hiểu và thực hiện tốt.
	 4. Kết quả của việc áp dụng kiến thức tự học vào thực tế.
 Sau khi tự học tự bồi dưỡng module 1 và áp dụng các biện pháp vào thực tế như tìm hiểu tâm sinh lí , hoàn cảnh gia đình, sức khoẻ... của học sinh tôi đã thu được kết quả như sau:
 - Mối quan hệ giữa cô giáo và học sinh trở lên gần gũi và thân thiện hơn.
 - Học sinh đã biết những bài học đạo đức về phép lịch sự khi gặp các thầy cô giáo và người lớn tuổi...
 - Học sinh đã có sự thay đổi trong trong sinh hoạt, biết vệ sinh cá nhân, ăn ở gọn gàng, sạch sẽ. các em đang hình thành tinh thần tự học trong các giờ học trên lớp buổi tối.
 - Một số các em học sinh đã biết cách dùng từ đúng trong hoàn cảnh giao tiếp ví dụ như khi giao tiếp với thầy cô giáo và người ở địa phương khác các em biết sử dụng từ “ vâng ạ” để thể hiện thái độ lễ phép, kính trọng thay cho từ địa phương có sắc thái tình cảm tương đương đó là từ “ ừ”.
 - Các em học sinh nữ biết các chăm sóc, giữ gìn vệ sinh thân thể hơn.
 Trên đây là bài thu hoạch BDTX về nội dung tự học trong Module 1 của cá nhân tôi trong tháng 9 và tháng 10 năm 2019.
 Người viết bài thu hoạch
 Nông Thị Mỹ

File đính kèm:

  • docxbai_thu_hoach_boi_duong_thuong_xuyen_module_1_dac_diem_tam_s.docx
Giáo án liên quan