Bài thu hoạch Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên - Module 12: Khắc phục trạng thái tâm lý căng thẳng trong học tập của học sinh THPT

2. Bản chất , nguồn gốc và cách ứng phó của stress trong quá trình học tập ở học sinh a. Bản chất của stress trong quá trình học tập ở học sinh

- Chúng ta biết stress kì sự phản ứng của cơ thể trước các tác nhân bên ngoài.Trong học tập, học sinh chịu rất nhiều tác động áp lực, không chỉ ở yêu cầu, nội dung tri thức môn học mà còn ở phương pháp giảng dạy, thái độ giảng dạy của giáo viên. Những điều đó tạo nên stress ở các em. Đó là những biến đổi tâm lí của học sinh khi các em giải quyết những vấn đề trong học tập. Cụ thể hơn đó là những biến đổi trong quá trình nhận thức của các em. Điều này có nghĩa là stress trong học tập ở học sinh chỉ là một quá trình, nó chỉ xuất hiện khi các nhiệm vụ học tập trở thành tình huống có vấn đề của mình. Stress trong học tập là tổng hòa một quá trình những biến đổi đáp ứng của cả hai mặt: Phản ứng sinh học và đáp ứng về mặt tâm lí, nó bao gồm nhiều giai đoạn đáp ứng ở những mức độ khác nhau tạo nên sự biến đổi cả về năng lượng sinh lí và cả năng lượng tâm lí nhận thức của học sinh, tạo ra năng lượng tâm lí mới ở bản thân học sinh cả về tâm lí và sinh lí nó có tác dụng củng cố phát triển khả năng giải quyết vấn đề của học sinh, giúp học sinh thích ứng tốt nhất với môi trường tri thức mới. Nếu những vấn đề, những mâu thuẩn trong nhận thức của học sinh không được giải quyết thì có thể phá vỡ sự cân bằng tâm lí của học sinh, có thể dẫn đến những rối loạn thích nghi tạm thời, làm cho các em khó hoặc không thể đối mặt giải quyết vấn đề trong học tập đang đặt ra đối với các em.Bản chất của stress: stress là nhịp sống luôn luôn có mặt ở bất kì thời điểm nào trong sự tồn tại của chúng ta. Một tác động bất kì tới một cơ quan nào đó đều gây ra stress. Stress không phải lúc nào cũng là kết quả của sự tổn thương, ngược lại có hai loại stress khác nhau, đối lập nhau: stress bình thường khỏe mạnh(eustress), stress độc hại hay gọi là stress tiêu cực(dystress). Với bản chất của stress, mỗi chúng ta cần cố gắng tự điều chỉnh và có thể giúp mọi người tìm ra nguồn gốc và có hướng khắc phục stress một cách phù hợp hơn.

 

doc9 trang | Chia sẻ: hatranv1 | Lượt xem: 610 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài thu hoạch Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên - Module 12: Khắc phục trạng thái tâm lý căng thẳng trong học tập của học sinh THPT, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG .........
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------------
BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN
Module THPT12: Khắc phục trạng thái tâm lý căng thẳng trong học tập của học sinh THPT
Năm học: ..............
Họ và tên: .	
Đơn vị: 	 
Căng thẳng tâm lí và stress trong học tập:Trước hết chúng ta khái quát chung về stress:
- Stress là hiện tượng rất phức tạp và rất khó định nghĩa chính xác. Trong cuộc sống thường nhật khái niệm này thường được dùng để mô tả trạng thái bực bội hoặc tâm lí bất an. 
- Stress xuất hiện khi áp lực vượt quá khả năng thông thường để ứng phó.
- Stress là tình trạng căng thẳng thể hiện mối tương tác giữa tác nhân công kích và phản ứng của cơ thể.
- Stress là phản ứng của con người đối với một tác nhân được coi là có hại cho cơ thể và tâm lí con người.
*Từ đó chúng ta khái niệm về stress trong học tập:
- Về đặc điểm tâm sinh lí cơ bản:
Học sinh THCS có độ tuổi ứng với tuổi thiếu niên, do vậy các em còn có tên gọi khác là thiếu niên, từ 11 đến 15 tuổi.
- Đây là thời kì phức tạp và quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi cá nhân.
- Thời kì này có một số tên gọi: quá độ, tuổi khủng hoảng, tuổi già trẻ con non người lớn
+ Một số đặc điểm tâm lí cơ bản sau:
- Phát triển không cân đối giữa chiều cao và cân nặng.
- Sự phát triển về mặt sinh lí. Điều kiện sống có nhiều thay đổi theo hướng mở rộng.
- Xu hướng muốn vươn lên làm người lớn.Đời sống tình cảm sâu sắc và phức tạp.
- Khái niệm về stress trong học tập:
Trong học tập, học sinh chịu nhiều áp lực, không chỉ ở yêu cầu, nội dung tri thức môn học mà còn ở phương pháp, thái độ giảng dạy của giáo viên. Những điều đó tạo nên stress ở các em.
Đó là những biến đổi tâm lí khi các em giải quyết những vấn đề trong học tập; là những biến đổi trong quá trình nhận thức của học sinh.
Nếu những vấn đề, những mâu thuẫn trong nhận thức của học sinh không được giải quyết, sẽ dẫn đến mất cân bằng tâm sinh lí của học sinh. Stress trong học tập của học sinh THCS nảy sinh.
- Stress trong học tập là tổng hòa một quá trình những biến đổi đáp ứng của cả hai mặt: phản ứng sinh học và đáp ứng về mặt tâm lí. Nó gồm nhiều giai đoạn đáp ứng ở những mức độ khác nhau tạo nên sự biến đổi cả về năng lượng sinh lí và cả năng lượng tâm lí nhận thức của học sinh, tạo ra năng lượng tâm lí mới ở bản thân học sinh cả về sinh lí và về tâm lí. Nó có tác dụng củng cố, phát triển khả năng giải quyết vấn đề của học sinh, giúp học sinh thích ứng tốt nhất với môi trường tri thức mới. Nếu những vấn đề, những mâu thuẫn trong nhận thức của học sinh không được giải quyết thì có thể phá vỡ sự cân bằng tâm – sinh lí của học sinh, có thể dẫn đến những rối loạn thích nghi tạm thời, làm cho các em khó hoặc không thể dối mặt, giải quyết vấn đề trong học tập đang đặt ra đối với các em.
2. Bản chất , nguồn gốc và cách ứng phó của stress trong quá trình học tập ở học sinh a. Bản chất của stress trong quá trình học tập ở học sinh 
- Chúng ta biết stress kì sự phản ứng của cơ thể trước các tác nhân bên ngoài.Trong học tập, học sinh chịu rất nhiều tác động áp lực, không chỉ ở yêu cầu, nội dung tri thức môn học mà còn ở phương pháp giảng dạy, thái độ giảng dạy của giáo viên. Những điều đó tạo nên stress ở các em. Đó là những biến đổi tâm lí của học sinh khi các em giải quyết những vấn đề trong học tập. Cụ thể hơn đó là những biến đổi trong quá trình nhận thức của các em. Điều này có nghĩa là stress trong học tập ở học sinh chỉ là một quá trình, nó chỉ xuất hiện khi các nhiệm vụ học tập trở thành tình huống có vấn đề của mình. Stress trong học tập là tổng hòa một quá trình những biến đổi đáp ứng của cả hai mặt: Phản ứng sinh học và đáp ứng về mặt tâm lí, nó bao gồm nhiều giai đoạn đáp ứng ở những mức độ khác nhau tạo nên sự biến đổi cả về năng lượng sinh lí và cả năng lượng tâm lí nhận thức của học sinh, tạo ra năng lượng tâm lí mới ở bản thân học sinh cả về tâm lí và sinh lí nó có tác dụng củng cố phát triển khả năng giải quyết vấn đề của học sinh, giúp học sinh thích ứng tốt nhất với môi trường tri thức mới. Nếu những vấn đề, những mâu thuẩn trong nhận thức của học sinh không được giải quyết thì có thể phá vỡ sự cân bằng tâm lí của học sinh, có thể dẫn đến những rối loạn thích nghi tạm thời, làm cho các em khó hoặc không thể đối mặt giải quyết vấn đề trong học tập đang đặt ra đối với các em.Bản chất của stress: stress là nhịp sống luôn luôn có mặt ở bất kì thời điểm nào trong sự tồn tại của chúng ta. Một tác động bất kì tới một cơ quan nào đó đều gây ra stress. Stress không phải lúc nào cũng là kết quả của sự tổn thương, ngược lại có hai loại stress khác nhau, đối lập nhau: stress bình thường khỏe mạnh(eustress), stress độc hại hay gọi là stress tiêu cực(dystress). Với bản chất của stress, mỗi chúng ta cần cố gắng tự điều chỉnh và có thể giúp mọi người tìm ra nguồn gốc và có hướng khắc phục stress một cách phù hợp hơn.
b. Nguồn gốc gây ra stress.
- Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến stress, các nhà nghiên cứu khoa học cho rằng stress có tính chất tích tụ, trường diễn ngấm dần nên nó xuất hiện cần phải kiểm soát và giải tỏa chúng. Nếu không những tác động nhỏ nhặt hàng ngày sẽ được dồn nén và khi bùng phát nó sẽ gây ra những tác hại không nhỏ.
+Nguồn gốc từ môi trường bên ngoài:Nguồn gốc từ cuộc sống gia đình: Những tác nhân gây ra stress từ phía gia đình thường gặp nhất trong những tác nhân gây ra stress. Đó là những vấn đề có liên quan đến yếu tố kinh tế và tình cảm, những kì vọng của những người trong gia đình đối với mỗi thành viên. Những yếu tố này thường phối hợp với nhau tác động mạnh mẽ đến cuộc sống, sinh hoạt, nhận thức, tình cảm và hành vi của các thành viên trong cuộc sống gia đình cũng như hoạt động ngoài xã hội.
Thời hạn của công việc phải hoàn thành, các vấn đề tài chính, áp lực công việc, môi trường làm việc không thuận lợi, thay đổi về thời gian làm việc,hay do sự mất mát của người thân, mâu thuẫn trong gia đình, quan hệ bạn bè không tốt, 
- Nguồn gốc từ môi trường xã hội: Đó là những yếu tố liên quan đến môi trường sống học tập và làm việc và những mối quan hệ ứng xử xã hội, tâm lí xã hội, trong đó có chủ thể trong hoạt động.
- Nguồn gốc từ môi trường tự nhiên là những yếu tố như khí hậu, thời tiết, cảnh quan, tiếng ồn, giao thông, ô nhiễm môi trường
+ Nguồn gốc bản thân:Yếu tố sức khỏe: Những rối loạn bệnh lí mới xã hội, những bệnh lí ở giai đoạn cuối hoặc những bệnh lí mãn tính. Các vấn đề về thể chất: Thay đổi cơ thể, không đủ chất dinh dưỡng, ốm đau, bệnh tậtĐôi khi, cách chúng ta suy nghĩ hay phiên giải những điều đã hoặc sẽ xảy ra đem đến cho chính mình rất nhiều căng thẳng.
- Yếu tố tâm lí: Đó là thái độ thích nghi của các thuộc tính tâm lí bao gồm năng lực ý chí, tình cảm, nhu cầu, thái độ nhận thức, kinh nghiệm của chủ thể. Ngoài ra có thể là những yếu tố có liên quan đến vô thức(giấc mộng, linh cảm)hoặc những dồn nén từ thời thơ ấu, trong quá khứ.
- Stress sinh thái: Rối loạn chu kì nhịp sinh học; rối loạn nhịp ăn ngủ; stress do chấn thương và bệnh tật; stress do tiếng ồn và các tác động vật lí, sinh hóa.
- Stress tâm lí-xã hội: Được hình thành trong các mối quan hệ và ứng xử xã hội, đây là những yếu tố quan trọng gây nên những biến đổi, thậm chí là rối loạn trong đời sống tâm lí. Sự thất vọng, điều này có thể do nguyên nhân từ phía khách quan hoặc do chủ quan, thất vọng bao gồm cả khủng hoảng lòng tin, sự hụt hẫngSự quá tải là trạng thái mà số lượng kích thích vượt quá khả năng ứng xử của chủ thể hay sự thiếu tải do những kích thích tác động đơn điệu, tẻ nhạt, buồn chán, không tương xứng với khả năng của chủ thể.
 Nguyên nhân của stress trong học tập của học sinh:
*Các yếu tố khách quan-môi trường tâm lí-xã hội: Bên cạnh những điều kiện thuận lợi thì môi trường xã hội cũng có thể mang đến nhiều bất lợi cho sự hình thành và phát triển nhân cách như: những tệ nạn tràn lan trong xã hội, nó tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới việc định hướng giá trị nhân cách, lối sống, quan hệ và học tập của các em học sinh. Tất cả những biến động của thời đại đang liên tục tác động mạnh mẽ tới mọi tầng lớp trong xã hội trong đó có cả học sinh, buộc họ phải đấu tranh để lựa chọn các động cơ mà thích ứng. Bản thân học sinh trong tương lai sẽ là nguồn nhân lực cho xã hội, họ đang cố gắng học tập, trau dồi tri thức, kinh nghiệm để đáp ứng yêu cầu của xã hội ngày một cao. Những yếu tố đó của môi trường, của thời đại đều có ảnh hưởng đến stress trong học tập của học sinh.
* Các yếu tố chủ quan:
- Về mặt sinh lí: Bị mắc những chứng bệnh đau đầu, đau lưng khi ngồi vào bàn học, sức khỏe yếu
- Về mặt tâm lí:
+ Nhận thức của học sinh trước các tình huống học tập: Vốn hiểu biết đã có mâu thuẫn với nhiệm vụ học tập mới, khó trong khi trình độ nhận thức còn hạn chế, bất lực với khả năng học tập của mình
+ Thái độ của học sinh trước các nhiệm vụ của môn học đề ra: Thấy mình không có khả năng học, không hứng thú với môn học, không tìm ra được phương pháp học tập thích hợp
+ Cách thức đáp ứng của học sinh trước các nhiệm vụ học tập: Đứng trước một bài toán khó, cách ghi nhớ và vận dung trí nhớ khi đứng trước một vấn đề, cách đương đầu và giải quyết với một nhiệm vụ học tập hay một vấn đề của cuộc sống, cách bố trí thời gian trong học tập, thi cử và nghỉ ngơi, ít dành thời gian cho việc giải trí, vui chơi
c. Cách ứng phó với stress trong học tập của học sinh:
* Quản lí được căng thẳng của bản thân: Việc đầu tiên là học sinh phải biết nhận ra các dấu hiệu của stress: những bất thường về thể chất, thần kinh và các mối quan hệ xã hội. Ứng phó với stress là khả năng giữ thăng bằng khi xảy ra những tình huống những sự việc đòi hỏi quá sức. Một số cách đối phó với stress:
- Hãy xem xung quanh có điều gì có thể thay đổi để xoay chuyển tình hình khó khăn.
- Đừng để tâm đến những việc lặt vặt, việc nào thật quan trọng thì làm làm trước, tạm gạt bỏ những việc không thật sự quan trọng sang một bên.
- Tránh những phản ứng thái quá. Không được trốn tránh bằng những trò vô bổ.
- Đặt những mục tiêu cụ thể cho bản thân, cắt bớt khối lượng công việc.
- Thay đổi cách nhìn nhận mọi việc.Chữa stress bằng các hoạt động thể chất.
*Phương pháp trợ giúp học sinh ứng phó với stress trong học tập:
- Chăm sóc sức khỏe và tránh những nguy hiểm có thể có.
- Can thiệp sớm một cách trực tiếp, chủ động và bình tĩnh.
- Tập trung vào những vấn đề của hiện tại.
- Cung cấp những thông tin chính xác vè những gì đã xảy ra.
- Không nói những điều không có khả năng thực thi.
- Cung cấp và đảm bảo về những trợ giúp tâm lí.
- Tập trung vào những lợi thế, khả năng phục hồi của học sinh.
- Khuyến khích ý chí tự lực.
- Quan tam đến cảm xúc của những người xung quanh.
- Ứng phó nhằm vào giải quyết vấn đề: Làm thay đổi tác nhân gây ra stress hoặc thay đổi mối quan hệ giữa con người với tác nhân đó thông qua những hành động trực tiếp và hoặc những hành động giải quyết vấn đề, cụ thể: chống trả hoặc làm yếu mối đe dọa; bỏ chạy; ngăn ngừa stress trong tương lai hoặc làm giảm ảnh hưởng của stress.
- Ứng phó nhằm vào cảm xúc: Làm thay đổi bản thân thông qua các hành động khiến bản thân cảm thấy dễ chịu hơn nhưng không làm thay đổi các tác nhân gây ra stress, cụ thể: Các hoạt động nhằm vào thân thể; các hoạt động nhằm vào nhận thức; các quá trình vô thức làm méo mô thực tại có thể đưa tới stress nội tâm.
*Qua môdun này chúng ta tìm ra một số biện pháp giúp giảm bớt căng thẳng tâm lí:
- Thể dục, thể thao hay vận động.
- Cười thoải mái, thư giãn: nghe nhạc, đọc sách, xem phim
- Chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lí.Ngủ đủ giấc,ngủ sâu, ngủ đúng giờ.
- Sự chia sẻ, hỗ trợ từ người thân, bạn bè.
- Sắp xếp thời gian hợp lí, có kĩ năng lập kế hoạch.
- Rèn luyện tư duy tích cực
- Để giảm stress cho học sinh, nhà trường nên thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể, tổ chức thảo luận dân chủ để hiểu rõ mục đích, ý nghĩa và nội dung của các phong trào thi đua, sau đó sẽ lựa chọn các hoạt đông cụ thể phù hợp với sở thích hứng thú, năng lực, nhu cầu tâm lí của học sinh.
- Các hoạt động kích thích cho học sinh cơ hội tìm kiếm, phát hiện tri thức, hình thành những kĩ năng phù hợp, những cảm xúa tích cực, kĩ năng sống cần thiết.
- Nhà trường cần sáng tạo nhiều hình thức tuyên truyền, vận động các phong trào thi đua, đổi mới, nâng cao chất lượng dạy và học, tham gia các phong trào sẽ giúp các em hình thành tự tin, giảm stress đáng kể. 
 Nội dung khắc phục trạng thái căng thẳng trong học tập của học sinh Để khắc phục trạng thái căng thẳng trong học tập của học sinh hay Stress thì chúng ta phải hiểu được khái niệm Stress và nguồn gốc gây ra Stress:
Khái niệm cơ bản về Stress.
Stress trong tiếng anh có nghĩa là nhấn mạnh, thuật ngữ này còn được dùng trong Vật lí học để chỉ sức nén mà vật liệu phải chịu. Hans Selye người Canada nghiên cứu và mô tả Stress có hai loại Stress khác nhau, đối lập nhau Stress bình thường khoả mạnh là euStresss, Stress độc hại hay còn gọi là Stress tiêu cực là diStresss.
Tác giả Tô Như Khê cho rằng  “Stress tâm lý chính là phản ứng không đặc hiệu xảy ra một cách chung khắp, do các yếu tố có hại về tâm lý xuất hiệt trong tình huống mà con người chủ quan thấy là bất lợi hoặc rủi ro, ở đây vai trò quyết định không chủ yếu do tác nhân kích thích mà do sự đánh giá chủ quan về các nhân tố đó ”
Nguồn gốc gây ra Stress có các nguồn gốc từ môi trường bên ngoài và nguồn gốc từ bản thân.
-         Nguồn gốc từ từ môi trường bên ngoài:
+ Tác động từ cuộc sống gia đình.
            + Tác động từ môi trường xã hội.
            + Tác động từ môi trường tự nhiên.
-         Nguồn gốc từ bản thân:
+ Do yế tố về sức khoẻ.
+ Do yếu tố về tâm lý.
Stress trong học tập đối với học sinh đây là “thời kỳ quá độ” độ tuổi khủng hoảng “Già trẻ con non người lớn” đây là thời kỳ chuyển từ tuo63u thơ sang tuổi trưởng thành nên các em thường có một số đặc điểm về tâm lý như sau:
            - Sự phát triển không cân đối giữa chiều cao và trọng lượng.
            - Sự phát triển về mặt sinh lý cũng như sự biến đổi căn bản về cơ thể.
            - Sự thay đổi về điều kiện sống.
            - Xu hướng vươn lên làm người lớn có ảnh hưởng tới tất cả các hoạt động tâm lí.
            - Nhu cầu mở rộng mối quan hệ với người lớn nuốn người lớn nhìn nhận mình một cách bình đẳng.
            - Dễ bị xúc động, dễ bị kích động. vui buồn chuyển hoá dễ dàng dẫn đến tình cảm còn mang tính bồng bột.
Từ những nguồn gốc trên đã dẫn đến trạng thái Stress và Stress cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đối với việc học tập của học sinh THCS chính vì đó chúng ta cần phải truyền thụ cho các em  có các phương pháp và kỹ năng ứng phó với Stress trong học học tập, các phương pháp hỗ trợ tâm lý cho học sinh để các em có thể phát hiện và ứng phó với Stress trong học tập đó là:
-         Các em có thể quản lí được căng thẳng của bản thân bằng việc các em nhận diện được các biểu hiện của Stress.
-         Các em có thể giảm mức độ của Stress để có một sức khoẻ tốt trong học tập và thi cử như:
+  Có chế độ ăn đầy dủ và cân bằng dưỡng chất.
+ Các em có thể uống cafê hoặc trà đậm vào buổi sáng để kích thích hệ thần kinh trung ương làm cho tỉnh táo vì Café và trà đậm có chứa chất cafein.
-         Hứng dẫn cho các em các liệu pháp để giảm Stress có hại như:
-         Ngâm tắm, ca hát, chơi đùa với thú nuôi, thư giãn, cười,thưởng thức nghệ thuật, Massage, tập thể dục buổi sáng, ngồi thiền – Yoga
Tích cực hoá hoạt động học tập  là sự phát triển ở mức độ cao hơn trong tư duy, đòi hỏi một quá trình hoạt động "bên trong" hết sức căng thẳng với một nghị lực cao của bản thân, nhằm đạt được mục đích là giải quyết vấn đề cụ thể nêu ra. Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh thể hiện ở những hoạt động trí tuệ là tập trung suy nghĩ để trả lời câu hỏi nêu ra, kiên trì tìm cho được lời giải hay của một bài toán khó cũng như hoạt động chân tay là say sưa lắp ráp tiến hành thí nghiệm. Trong học tập hai hình thức biểu hiện này thường đi kèm nhau tuy có lúc biểu hiện riêng lẻ.
Đối với bộ môn vật lý, việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh gắn liền với việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng kết hợp các phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức; khai thác thí nghiệm trong dạy học vật lý theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh và đổi mới việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học hiện nay.
Nội dung của tiểu luận này đề cấp đến hai vấn đề chính:
– Phân tích các biện pháp tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học vật lí.
– Đề xuất một giáo án dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh.
2. Trình bày cách sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đối với bộ môn vật lý ?
Vật lý học là bộ môn khoa học nghiên cứu về cấu trúc, tính chất và các hình thức biến đổi cơ bản nhất của vật chất. Quá trình nhận thức vật lý khá phức tạp, cùng một lúc phải vận dụng nhiều phương pháp của riêng bộ môn vật lý cũng như phương pháp của các khoa học khác. Muốn hoạt động nhận thức vật lý có kết quả trước hết phải quan tâm đến việc hình thành kỹ năng, kỹ xảo thực hiện các thao tác trên. Bên cạnh đó phải có phương pháp suy luận, có khả năng tư duy trừu tượng, tư duy logic, tư duy sáng tạo.
3. Những hành động chính của hoạt động nhận thức vật lí
Hoạt động nhận thức thức vật lý là khá phức tạp. Tuy nhiên có thể kể đến các hành động chính của hoạt động nhận thức vật lý sau:
– Quan sát hiện tượng tự nhiên, nhận biết đặc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
– Tác động vào tự nhiên, làm bộc lộ những mối quan hệ, những thuộc tính của sự vật, hiện tượng. Xác định mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng.
– Xác định mối quan hệ hàm số giữa các đại lượng.
– Xây dựng những giả thiết hay mô hình để lý giải nguyên nhân của hiện tượng quan sát được. Từ giả thiết, mô hình suy ra những hệ quả.
– Xây dựng các phương án thí nghiệm để kiểm tra các hệ quả.
– Đánh giá kết quả thu được từ thí nghiệm.
– Khái quát hóa kết quả, rút ra tính chất, quy luật hình thành các khái niệm, định luật và thuyết vật lý.
– Vận dụng kiến thức khái quát vào thực tiễn.

File đính kèm:

  • docbai_thu_hoach_boi_duong_thuong_xuyen_giao_vien_module_12_kha.doc