Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao vốn từ vựng môn Tiếng Anh của học sinh lớp 4

Khi dạy từ người dạy không nên dịch nghĩa suông ,mà cần cho ví dụ minh họa cho nghĩa và cách dùng từ đẻ người học hiểu và nhớ lâu .Chỉ dùng tiếng Việt dịch nghĩa khi từ là một dnh từ trìu tượng.

 -Sau khi giới thiệu nghĩa từ ,để kiểm tra mức tiếp thu của người học ,người dạy yêu cầu người học nói lại nghĩa của từ bằng tiếng Anh /Việt tùy trình độ Bước này giúp cho người học hiểu và khuyến khích họ lắng nghe cách dùng từ trong văn cảnh Tiếng Anh.Ví dụ muốn kiểm tra lại người học nghĩa của từ House,giáo viên có thể dùng một số hình vẽ trong đó có hình ngôi nhà thì học sinh sẽ chỉ ra nghĩa của từ house.

 -Với học sinh tiểu học thì việc học và nhớ nghĩa từ là điều vô cùng quan trọng trong việc học tiếng .Vì thế giáo viên cho học sinh học lặp lại từ quá nhiều lần,điều này dễ làm học sinh chán và không mang lại hiệu quả cho việc nhớ từ .

 -Đối với học sinh tiểu học giáo viên không phiên âm các từ mới.Chỉ nên khuyến khích các em nghe và phát âm các từ theo mức độ nghe của mình và ghi chú cách đọc theo sự hiểu biết của mình

 

doc18 trang | Chia sẻ: dungnc89 | Lượt xem: 1912 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao vốn từ vựng môn Tiếng Anh của học sinh lớp 4, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng quản lý việc học ở nhà của học sinh.
- Ngoài ra, cách học từ vựng của học sinh cũng là điều đáng được quan tâm, học sinh thường học từ vựng bằng cách đọc từ bằng tiếng Anh và cố nhớ nghĩa bằng tiếng Việt, có viết trong tập viết cũng là để đối phó với giáo viên, chứ chưa có ý thức tự kiểm tra lại mình, để khắc sâu từ mới và vốn từ sẵn có. Vì thế cho nên, các em rất mau quên và dễ dàng lẫn lộn giữa từ này với từ khác. Do vậy, nhiều học sinh đâm ra chán học và bỏ quên. Cho nên giáo viên cần chú ý đến tâm lý này của học sinh.
c. Sự cần thiết của đề tài:
*Cơ sở lý luận :
Luật Giáo dục – 2005 (điều 5) quy định “phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.”
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “ Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: “ Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh , phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.
 Để nghiên cứu đề tài ,tôi đã tham khảo quá trình giảng dạy thực tế của bản thân cũng như của đồng nghiệp ;ngoài ra còn dựa vào một số tài liệu chuyên ngành như:Let’s Learn English book ,Work book
*Cơ sở thực tiễn:
- Bất cứ một thứ tiếng nào trên thế giới, muốn giao tiếp được với nó, đòi hỏi chúng ta phải có một vốn từ. Bởi vì từ vựng là một thành phần không thể thiếu được trong ngôn ngữ, được sử dụng cho hoạt động giao tiếp. Do vậy, việc nắm vững số từ đã học để vận dụng là việc làm rất quan trọng.
- Trong tiếng Anh chúng ta không thể rèn luyện và phát triển bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh mà không dựa vào nền tảng của từ vựng. Thật vậy nếu không có số vốn từ cần thiết, các em sẽ không nghe được và hệ quả của nó là không 
nói được, đọc không được và viết cũng không xong, cho dù các em có nắm vững mẫu câu.
- Thông qua việc dạy từ vựng cho học sinh, giúp tạo điều kiện cho các em thêm tự tin khi giao tiếp, hay tham gia các hoạt động, trò chơi bằng tiếng Anh.
5.2 Phạm vi áp dụng của đề tài:
- Học sinh lớp 4 trường Tiểu Học Thanh Văn.
5.3 Thời gian áp dụng:
 a. Thời gian áp dụng :Từ tháng 9/ 2014- Tháng 4/2015
- Tháng 9/2014: Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến đề tài.
- Tháng 10-12/2014: Xây dựng bộ đề khảo sát chất lượng lần thứ nhất; tổ chức khảo sát chất lượng học tập môn Tiếng Anh của học sinh lớp 4.
-Tháng 12/2014: Xây dựng bộ đề khảo sát chất lượng lần thứ hai; tiến hành tổ chức khảo sát chất lượng học tập môn Tiếng Anh của học sinh lớp 4
 - Tháng 01/2015: Tiến hành viết đề tài.
5.4 Giải pháp thực hiện:
 *Quá trình thực hiện:
 a/. Lựa chọn từ để dạy:
Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp với các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt chúng ta phải có vốn từ phong phú.
Ở môi trường tiểu học hiện nay, khi nói đến ngữ liệu mới là chủ yếu nói đến ngữ pháp và từ vựng, từ vựng là ngữ pháp luôn có mối quan hệ khăng khít với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên việc dạy và giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học luôn xuất hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề:
- Từ chủ động (active vocabulary)
- Từ bị động (passive vocabulary)
Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên cần đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn.
 Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động.
- Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là:
+ Form (dạng từ).
+ Meaning (ý nghĩa).
+ Use (cách sử dụng).
Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ.
-Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ.
- Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau: 
+ Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ?
+ Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ?
	- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh.
- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay.
- Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm thì bạn nên yêu cầu học sinh đoán.
 b. Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới:
- Giáo viên có thể dùng một số thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới như:
1. Visual (nhìn): cho học sinh nhìn tranh ảnh, vẽ phác họa cho các em nhìn, giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chóng.
Ví dụ: a car	 ví dụ: a flower
Tranh ảnh sẽ thu hút sự chú ý của học sinh trong việc rút ra từ mới đối với những từ khó tìm được vậy thật để dạy hoặc khó mô tả cho học sinh hiểu .
Ví dụ :climb 
 Get up
 Go to shool
2. Mine (điệu bộ): Thể hiện qua nét mặt, điệu bộ.
Ví dụ: bored ,Tired ,hungry
Teacher looks at watch, makes bored face, yawns
T. asks: “How do I feel?”
 Ví dụ: (to) jump
T. jumps
T. asks: “What am I doing?”
3. Realia (vật thật): Dùng những dụng cụ trực quan thực tế có được.
Sử dụng vật thật đối với những bài về những đồ vật đơn giản gần gũi với đời sống dễ tìm như đồ dùng học tập ,đồ dùng trong gia đình.
Ví dụ: cakes (count), rice (uncount.)
T. brings real cakes and rice into the class.
T. asks, “What’s this?”
Ví dụ: open (V.), closed (v.)
T. opens and closes the door
T. says, “Tell me about the door: it’s..........what?”
4. Situation / explanation(tình huống/giải thích):
Ví dụ: honest
T. explains, “I don’t tell lies. I don’t cheat in the exams. I tell the truth.”
T. asks, “What am I? Tell me the word in Vietnamese.”
5. Example(ví dụ):
Ví dụ: fumiture
T. lists examples of fumiture: “tables, chairs, beds – these are all ... fumiture ... Give me another example of... fumiture...”
Ví dụ: (to) complain
T. say, “This room is too noisy and too small. It’s no good (etc.)”
T. asks, “What am I doing?”
6. Synonyon \ antonyon (đồng nghĩa \ trái nghĩa): 
Giáo viên dùng những từ đã học rồi để giảng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa.
Ví dụ: intelligent
T. asks, “What’s another eord for clever?”
Ví dụ: stuppid
T. asks, “What’s the opposite of clever?”
7. Translation (dịch): 
Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt để giảng nghĩa từ trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi không còn cách nào khác, thủ thuật này thường được dùng để dạy từ trừu tượng, hoặc để giải quyết một số lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép, Giáo viên gợi ý học sinh tự dịch từ đó.
Ví dụ: (to) forget
 T. asks, “How do you say “quên” in English?”
8. T’s eliciting questions (câu hỏi gợi ý) : 
Để giới thiệu từ mới, giáo viên dạy cho học sinh theo bốn kỹ năng nghe – nói – đọc – viết.
+ Nghe: Giáo viên đọc mẫu, học sinh lắng nghe.
+ Nói: Giáo viên đọc từ, học sinh đọc lại.
+ Đọc: Giáo viên viết từ lên bảng, học sinh đọc từ bằng mắt, bằng miệng.
+ Viết: Học sinh viết từ vào tập.
Trong khi dạy từ mới phải ghi nhớ các điểm sau: Nên giới thiệu từ trong mẫu câu, ở những tình huống giao tiếp khác nhau, giáo viên kết hợp việc làm việc đó, bằng cách thiết lập được sự quan hệ giữa từ cũ và từ mới, từ vựng phải được củng cố liên tục.
Giáo viên thường xuyên kiểm tra từ vựng vào đầu giờ bằng cách cho các em viết từ vào bảng con và giơ lên, với cách này giáo viên có thể quan sát được toàn bộ học sinh ở lớp, bắt buộc các em phải học bài và nên nhớ cho học sinh vận dụng từ vào trong mẫu câu, với những tình huống thực tế giúp các em nhớ từ lâu hơn, giao tiếp tốt và mang lại hiệu quả cao.
Để học sinh tiếp thu bài tốt đòi hỏi khi dạy từ mới, giáo viên cần phải lựa chọn các phương pháp cho phù hợp, chúng ta cần chọn cách nào ngắn nhất, nhanh nhất, mang lại hiệu quả cao nhất, là sau khi học xong từ vựng thì các em đọc được, viết được và biết cách đưa vào các tình huống thực tế.
* Biện pháp tổ chức thực hiện:
 a/. Các bước tiến hành giới thiệu từ mới:
* Bước giới thiệu bài, giới thiệu chủ đề: đây là bước khá quan trọng trong việc dạy từ vựng. Bước này sẽ quyết định sự thành công của tiết học, nó sẽ gợi mở cho học sinh liên tưởng đến những từ sắp học qua chủ điểm vừa mới được giới thiệu.
Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải thực hiện theo trình tự: nghe, nói, đọc, viết. Đừng bao giờ bắt đầu từ hoạt động nào khác “nghe”. Hãy nhớ lại quá trình học tiếng mẹ đẻ của chúng ta, bao giờ cũng bắt đầu bằng nghe, bắt chước phát âm rồi mới tới những hoạt động khác. Hãy giúp cho học sinh của bạn có một thói quen học từ mới một cách tốt nhất:
- Bước 1: “nghe”, bạn cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu hoặc mở băng đĩa cho học sinh nghe.
- Bước 2: “nói”, sau khi học sinh đã nghe được ba lần bạn mới yêu cầu học sinh nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại, bạn cần chú ý cho cả lớp nhắc lại trước, sau đó mới gọi cá nhân.
- Bước 3: “đọc”, bạn viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để đọc. Cho học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh tới một chừng mực mà bạn cho là đạt yêu cầu.
- Bước 4: “viết”, sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi bạn mới yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở.
- Bước 5: bạn hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ đó không và yêu cầu một học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt.
- Bước 6: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận diện âm tiết có trọng âm và đánh dấu.
- Bước 7: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học.
B Dạy từ:
Khi dạy từ người dạy không nên dịch nghĩa suông ,mà cần cho ví dụ minh họa cho nghĩa và cách dùng từ đẻ người học hiểu và nhớ lâu .Chỉ dùng tiếng Việt dịch nghĩa khi từ là một dnh từ trìu tượng.
 -Sau khi giới thiệu nghĩa từ ,để kiểm tra mức tiếp thu của người học ,người dạy yêu cầu người học nói lại nghĩa của từ bằng tiếng Anh /Việt tùy trình độ Bước này giúp cho người học hiểu và khuyến khích họ lắng nghe cách dùng từ trong văn cảnh Tiếng Anh.Ví dụ muốn kiểm tra lại người học nghĩa của từ House,giáo viên có thể dùng một số hình vẽ trong đó có hình ngôi nhà thì học sinh sẽ chỉ ra nghĩa của từ house.
 -Với học sinh tiểu học thì việc học và nhớ nghĩa từ là điều vô cùng quan trọng trong việc học tiếng .Vì thế giáo viên cho học sinh học lặp lại từ quá nhiều lần,điều này dễ làm học sinh chán và không mang lại hiệu quả cho việc nhớ từ .
 -Đối với học sinh tiểu học giáo viên không phiên âm các từ mới.Chỉ nên khuyến khích các em nghe và phát âm các từ theo mức độ nghe của mình và ghi chú cách đọc theo sự hiểu biết của mình
 -Có những trường hợp từ vựng được dạy gồm nhiều từ đi với nhau thì có nghĩa khác còn khi tách riêng từng từ một thì lại có nghĩa khác ,ví dụ từ “Good morning”buổi sáng ,đây là một đơn vị từ gồm 2 từ “Good”(tốt)và “morning”(buổi sáng)nếu ghép đúng nghĩa các từ lại với nhau thì câu sẽ không có nghĩa như nguyên bản Tiếng Anh và sẽ làm cho các em nhầm lẫn. Vì thế giáo viên không nên tách ra từng từ để dạy trong trường hợp như thế ,do đó giáo viên phải khuyến khích các em có những mẩu giấy để ghi chép các từ 
 - Lứa tuổi tiểu học là lúa tuổi dễ học theo cái gì có sẵn. Vì vậy giáo viên không nên giải thích nhiều về cấu trúc trong đơn vị từ .Đôi lúc giáo viên cần phải giải thích sự khác biệt về nghĩa chứ không phải chỉ cho nghĩa của từ.Ngôn ngữ là một hệ thống ,vì vậy việc giải thích nghĩa nên thông qua hình ảnh và so sánh đối chiếu .Ví dụ để dạy nghĩa của hai từ “big”và từ “small”giáo viên chỉ cần vẽ lên bảng 2 các thước kẻ một cái lớn và một cái bé như vậy học sinh sẽ hình dung ra ngay nghĩa của từng từ.
 - Trong Tiếng Anh cũng như tiếng Việt ,một từ thường có những liên hệ với các từ khác .Vì vậy dạy theo mối quan hệ đồng nghĩa và phản nghĩa cũng rất hiệu quả .Đồng nghĩa không có nghĩa là giống hệt nhau mà chúng có nghĩa tương tự :Ví dụ như từ “see”(nhìn, thấy, xem) và từ “Look”(nhìn)hoặc từ “Table”và từ “desk”
 - Việc dạy từ vựng là một vấn đề quan trọng nhưng việc học như thế nào để nhớ được từ lâu cũng quan trọng không kém .Người dạy không nên ép buộc học sinh phải học theo một cách gò bó nhất định mà khuyến khích động viên học sinh chủ động nghĩ ra cách học theo kiểu của riêng mình.
 -Để quá trình dạy và học từ vựng có hiệu quả và không nhàm chán ,giáo viên phải luôn thay đổi cách dạy sao cho lôi cuốn và làm cho người học dễ nhớ .
 -Ngoài những phương pháp cụ thể ,giáo viên có thể kết hợp một lúc nhiều kỹ thuật để dạy từ nhưng yêu cầu phải thao tác nhanh tránh mất thời gian.Ví dụ dạy từ “walking”,sau khi đọc và viết lên bảng giáo viên nói:
T:look at the picture.he’s walking .now look at me .l’m walking,too(bắt chước hành động đang đi)walking ,walking.it’s an action.repeat.Walking.
 Sts:walking
 T:Good Sts A,what does “walking”mean in Vieettnamese?
 Sts: đang đi bộ.
 c/. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới:
Chúng ta biết rằng chỉ giới thiệu từ mới thôi không đủ, mà chúng ta còn phải thực hiện các bước kiểm tra và củng cố. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố sẽ khuyến khích học sinh học tập tích cực và hiệu quả hơn. Trong hoạt động này, chúng ta có thể sử dụng để kiểm tra từ mới. Sau đây là các thủ thuật kiểm tra từ mới:
1.Matching:Nối các từu ở cột A với từ ở cột B,nối từ /cụm từ với tranh /đồ vật v..v
 Ex:nối từ/ cụm từ với tranh 
 1-orange juice
 2-minerral water
 3-ride a bike.
 4-house.
 5- rice 
 6-bread.
2. Rub out and Remember 
3. Slap the board 
4. What and where 
5. Bingo 
6. Lisle order vocabulary 
7. Picture drill
8.Hang man 
9. Kim’ s Game
10.Simon says.
*Hướng dẫn học sinh học từ vựng ở nhà:
Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, thì chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải kiến thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các em phải tự học bằng chính các hoạt động của mình.
Hơn nữa thời gian học ở trường rất ít, cho nên đa phần thời gian còn lại ở gia đình các em phải tổ chức cho được hoạt động học tập của mình. Làm được điều đó, thì chắc chắn hoạt động dạy và học sẽ ngày càng hoàn thiện hơn.
Cho nên ngay từ đầu từ năm học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh xây dựng hoạt động học tập ở nhà.
a/. Chuẩn bị từ vựng.
b/. Học thuộc lòng từ vựng.
5.4.1. Tính mới của đề tài:
*Tính mới của đề tài:
- Trước khi đi vào những vấn đề cụ thể, chúng ta thống nhất với nhau rằng, phương pháp chủ đạo trong dạy học ngoại ngữ của chúng ta là lồng ghép, nghĩa là từ mới cần được dạy trong ngữ cảnh, ngữ cảnh có thể là một vật thật, tranh ảnh hay một bài hội thoại. Tuy nhiên, nói đến cùng thì việc dạy và học ngoại ngữ vẫn là việc dạy từ mới như thế nào, dạy cấu trúc câu mới như thế nào để học sinh biết cách sử dụng từ mới và cấu trúc mới trong giao tiếp bằng tiếng nước ngoài.
Ngay từ đầu, giáo viên cần xem xét các thủ thuật khác nhau cho từng bước xử lý từ vựng trong các ngữ cảnh mới : gợi mở, dạy từ, kiểm tra và củng cố từ vựng.
- Có nên dạy tất cả những từ mới không ? dạy bao nhiêu từ trong một tiết thì thừa ?
- Dùng sẵn mẫu câu đã học hoặc sắp học để giới thiệu từ mới.
- Dùng tranh ảnh , dụng cụ trực quan để giới thiệu từ mới .
- Đảm bảo cho học sinh nắm được cấu trúc , vận dụng từ vựng vào cấu trúc để hoàn thiện chức năng giao tiếp. Thiết lập mối quan hệ giữa cấu trúc mới và vốn từ đã có.
- Khắc sâu vốn từ trong trí nhớ của học sinh thông qua các mẫu câu và qua những bài tập thực hành.
	- Bên cạnh đó, phương pháp này có thể áp dụng với mọi đối tượng trên địa bàn huyện.
 * Định hướng chung của đề tài:
Sau khi phân tích những nguyên nhân làm cho học sinh sợ học tiếng Anh, thường xuyên không thuộc bài và việc dạy từ vựng ở trường phổ thông chưa đạt hiệu quả cao. Cụ thể vào đầu năm học khi nhận giảng dạy tiếng Anh tiểu học, sau vài tiết học đầu tiên, tôi cho học sinh của lớp 4a làm bài kiểm tra từ vựng, tôi yêu cầu các em nối từ tiếng Anh với nghĩa từ tiếng Việt phù hợp (Matching). Dịch từ sang tiếng Việt, dịch từ sang tiếng Anh. Cuối cùng tôi thu được kết quả như sau :
TSHS
Nối từ
Dịch sang tiếng Việt
Dịch sang tiếng Anh
30
20
15
10
Với kết quả như thế, tôi quyết định thử áp dụng một số kinh nghiệm dạy từ vựng của mình qua những năm đứng lớp và suốt những tiết học sau tôi áp dụng những kinh nghiệm của mình được trình bày sau đây, để cuối năm so sánh với kết quả ban đầu.
	5.4.2. Khả năng áp dụng:
- Có thể áp dụng cho các học sinh tiểu học ở trường và các trường tiểu học trong Huyện.
- Sau một thời gian vận dụng các thủ thuật giúp học sinh học từ vựng trên lớp và một số thủ thuật giúp học sinh học từ vựng khi ở nhà. Nguồn từ vựng của học sinh đã được tăng lên rõ rệt. Có được nguồn từ vựng này sẽ giúp các em tích cực tham gia học tập, nghiên cứu, tự tin hơn trong thực hành và giao tiếp, góp phần nâng cao chất lượng học tập trong bộ môn tiếng Anh của học sinh và hiệu quả trong việc giảng dạy tiếng Anh của giáo viên. Như vậy, việc vận dụng các thủ thuật giúp học sinh học từ vựng ở trên lớp, không chỉ tạo không khí vui vẻ, phấn khởi học tập của học sinh, mà là một thủ thuật khoa học, sáng tạo của người thầy. Tôi tin rằng nếu tiếp tục thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này một cách nghiêm túc, xuyên suốt quá trình giảng dạy thì chất lượng học tập bộ môn Tiếng Anh trong trường Tiểu học Thanh Văn nói riêng mà còn trong cả huyện sẽ có được những kết quả khả quan hơn.
5.4.3. Kết quả thực hiện:
a/. Kết quả cụ thể:
Sau một thời gian áp dụng " Phương pháp dạy từ vựng”
 Ngoài việc hướng dẫn cách đọc, phát âm đúng từ vựng, mẫu câu, luôn tạo cho học sinh tính chuyên cần, siêng năng khi đọc tiếng Anh, việc học của các em đã tăng đáng kể. Phần lớn các em đều thích học và đọc tiếng Anh với kết quả như sau: 
TSHS
Nối từ
Dịch sang tiếng Việt
Dịch sang tiếng Anh
30
30
25
21
Ngoài ra :
- Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn.
- Học sinh đã thuộc các từ mới ngay tại lớp học.
- Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt.
- Các em học sinh yếu kém có thể sử dụng được từ vựng vào những câu đơn giản. Những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp hơn.
b/. Ưu điểm và hạn chế của sáng kiến kinh nghiệm.
* Ưu điểm:
-Có thể áp dụng rộng rãi, có tính khả thi cao.
-Áp dụng phương pháp này giúp học sinh năng động, sáng tạo, và có hứng thú hơn vào bài học và môn học.
* Hạn chế: 
- Là giáo viên mới giảng dạy tiếng Anh tiểu học do đó kinh nghiệm, phương pháp dạy học sinh còn hạn chế.
 6. Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình giảng dạy, tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm nhỏ cho mình trong việc giảng dạy như sau:
Trong quá trình dạy sẽ có rất nhiều khó khăn cho cả giáo viên và học sinh vì lẽ : học sinh khó tập trung nghiêm túc bởi các tác nhân xung qu

File đính kèm:

  • dochong_SKKN.doc